Truyền kỳ về tướng Washington (P.4): Thomas Jefferson viết Tuyên ngôn Độc lập
Với các nhà sử học, Thomas Jefferson là một ẩn đố, một nhân vật không thể định nghĩa được. Bởi vì nói về Thomas Jefferson là nói về một phạm trù quá bao la, rộng lớn, tựa như ngàn vạn núi sông ẩn hiện sau sương mù, mà khi nhìn đến bạn vĩnh viễn chỉ thấy được một đỉnh núi mà thôi.
Tại Đại hội Lục địa, Adams đã đề cử Thomas Jefferson, vị luật sư 33 tuổi đến từ Virginia và cũng tham gia vào nhóm soạn thảo. Họ dự định soạn một công văn có cơ sở làm tôn chỉ tuyên dương, đại biểu cho Quốc hội Lục địa nhằm tuyên bố với chủ quốc Anh và khắp thế giới: Nước Mỹ độc lập!
Jefferson được đề cử vào nhóm sáng tác nhờ cuốn sách ông viết vào năm 1774 tên là “A Summary View of the Right of British American” (Tạm dịch: Quan điểm tóm lược về các quyền lợi của Bắc Mỹ thuộc Anh) – một tác phẩm đứng từ góc độ pháp luật để chứng minh việc Anh quốc cai trị châu Mỹ là bất hợp pháp. Chính nhờ cuốn sách này mà Adams đã thấy được trí tuệ hơn người và chính nghĩa mãnh liệt của Thomas Jefferson, ông bèn mời Jefferson tham gia nhóm soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Khi đó Thomas Jefferson vừa mới vào quốc hội, tính cách điềm đạm, ít nói, là một hình mẫu đối lập với Adams. Nếu Adams náo nhiệt, ồn ào, giỏi về tranh luận, thì Jefferson lại kiệm lời, tiếc lời nói như tiếc vàng. Vào những năm cuối đời, Adams từng nói rằng trong trí nhớ của mình ông hầu như chưa thấy Jefferson nói nhiều hơn ba câu cùng một lúc.
Thomas Jefferson sinh ngày 13/4/1743. Giống như George Washington, ông cũng sinh ra trong một gia đình nông dân giàu có ở bang Virginia, nơi ông trồng bông vải và thuốc lá trên đồn điền của gia đình. Mẹ của Thomas xuất thân từ dòng họ Randolph, tổ tiên của bà là quý tộc Anh, có thể bắt nguồn từ hoàng gia Scotland. Giống với Washington, cha Thomas mất từ khi ông còn bé, và ông cũng có nhiều anh chị em. Thomas và Washington quả thật có rất nhiều nét tương đồng, cả hai đều yêu thích cưỡi ngựa từ khi còn nhỏ, tự tin vào việc cầm cương trên lưng ngựa, băng rừng vượt suối ngắm nhìn núi non sông nước, vui thích trải nghiệm lối sống này, và cả hai đều từng tận hưởng niềm vui canh tác và trồng trọt. Sau khi trưởng thành, mỗi người đều lấy một góa phụ trẻ cùng tên là Martha làm vợ. George Washington thích âm nhạc và nghi thức giao tiếp vũ hội, trong khi Thomas Jefferson là một nghệ sỹ vĩ cầm, ông yêu thích đàn vĩ cầm từ khi còn niên thiếu và mỗi ngày đều luyện tập không ngừng. Ông vẫn duy trì thói quen ấy đến cuối đời, cho dù là không có khán giả ông vẫn độc tấu và tự vui thích với điều này.
Dưới con mắt của các sử gia, Thomas Jefferson là một ẩn đố, là một nhân vật không thể định nghĩa được. Bởi vì nói về Thomas Jefferson là nói về một phạm trù quá bao la, rộng lớn, tựa như ngàn vạn núi sông bị bao phủ trong sương mù, khi bạn nhìn đến, vĩnh viễn chỉ thấy được một trong những đỉnh núi đó mà thôi.
Thomas Jefferson đã viết bản Tuyên ngôn Độc lập, kể từ khi được xuất bản, công văn này không chỉ trở thành bản tuyên ngôn cho cách mạng Mỹ, mà còn là ngọn cờ tinh thần cho các cuộc đấu tranh giành độc lập trên khắp thế giới. Đạo luật Virginia do ông soạn thảo nhấn mạnh rằng tự do tín ngưỡng cá nhân là quyền tự do Trời ban cho con người. Ông là vị tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ, đã mua lại thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ từ tay Hoàng đế Napoleon, hiện là vùng trung bộ của Hoa Kỳ. Điều này khiến lãnh thổ Hoa Kỳ được mở rộng gấp rưỡi, đồng thời, ông còn đích thân huấn luyện một đội thám hiểm đi khám phá khu vực tây bộ và trở thành người đặt nền móng cho sự phát triển kéo dài hàng thế kỷ của khu vực này.
Là một nhà giáo dục, Jefferson chủ trương thành lập trường công lập để tất cả trẻ em đều được hưởng nền giáo dục cơ bản. Ông cũng là một kiến trúc sư và nghệ sỹ, đã tự tay thiết kế, lên bản vẽ và giám sát việc xây dựng khu phức hợp Monticello và Đại học Virginia – một di sản vật thể mà Jefferson để lại cho thế giới. Khi còn tại vị, ông thường đặt những bộ xương khủng long do đoàn thám hiểm mang về bày trên sàn Nhà Trắng. Nếu nói về nghĩa cử nghệ thuật, thử hỏi ai có thể sánh vai cùng vị tổng thống này? Cũng vì sở thích đọc nên ông có số lượng sách đáng kinh ngạc, mang đến cho ông biệt danh “Mammoth”, ví von sở thích đọc sách của ông với một con voi ma mút khổng lồ. Vào những năm cuối đời, bộ sưu tập sách của Jefferson đã được thư viện quốc hội Mỹ mua lại, phải nói rằng đó là một kho báu rực rỡ huy hoàng.
Miền đất hứa Monticello
Điều khiến người viết cảm động nhất về Thomas Jefferson, một người với tài năng phong phú không cách nào định nghĩa được, chính là sự chân thành, tận tụy, đặc biệt là mỗi lời hứa đều có sức nặng ngàn vàng của ông.
Khi còn là cậu bé, Jefferson có một người bạn vô cùng thân thiết, thường xuyên cùng ông ngược xuôi sông núi. Gần đó có một ngọn đồi nhỏ được coi là khu vườn bí mật, nơi cả hai cùng ngồi xuống ngắm nhìn cảnh vật xung quanh, nước chảy quanh co, núi sông đẹp như tranh vẽ. Hai cậu bé đã cùng thề rằng nếu ai trong hai người qua đời trước thì sẽ được người kia đem chôn cất tại đây, trên đỉnh núi này, để vẫn có thể cùng nhau ngắm nhìn phong cảnh. Thật không may, trò đùa trẻ thơ giữa hai chàng thiếu niên đã trở thành lời tiên đoán cho số phận. Người bạn nhỏ khi vừa trưởng thành đã qua đời, Jefferson giữ lời hứa chôn người bạn của mình trên đỉnh núi này. Từ năm 1768, ông bắt đầu xây dựng một ngôi nhà trên đỉnh núi, tất cả bản vẽ thiết kế đều do ông thực hiện, nhưng việc xây dựng thì phải đợi đến khi ông từ chức tổng thống và quay về quê nhà mới có thể chính thức được hoàn thiện. Tòa kiến trúc này chính là Monticello – một danh lam thắng cảnh mà bất cứ du khách nào cũng không thể bỏ qua.
Phu nhân của Jefferson là bà Martha có mối quan hệ rất bền chặt với chồng. Martha có giọng hát tuyệt vời và thành tích nghệ thuật xuất sắc. Là một người vợ ở nhà nội trợ, bà đã tạo ra bầu không khí gia đình ấm áp. Mỗi khi Jefferson chơi piano, bà sẽ hát phối nhịp theo. Trong cuộc hôn nhân kéo dài 10 năm, cặp đôi này có sáu mặt con, nhưng cuối cùng chỉ có hai người con gái là còn sống. Năm 1782, Jefferson mất đi cậu con trai nhỏ và người vợ yêu quý của mình. Trước khi qua đời, bà Martha hoặc vì lo lắng rằng vợ kế là người hà khắc, hoặc vì tình cảm đối với chồng vẫn lưu luyến không rời, nên đã yêu cầu Jefferson đừng bao giờ tái hôn. Jefferson đồng ý, ông không bao giờ tái hôn suốt quãng đời còn lại. Trong lịch sử Hoa Kỳ, Jefferson có lẽ là vị tổng thống duy nhất tại vị 8 năm mà không có đệ nhất phu nhân nào bên cạnh.
Trong những năm chiến tranh giành độc lập, Bennett Arnold, người từng là anh hùng cách mạng lập nên những kỳ tích quân sự, đã phản bội và đầu quân cho nước Anh tại West Point – nơi đặt pháo đài quân sự quan trọng nhất trên sông Hudson mà ngày nay là học viện quân sự West Point. Arnold đã bí mật lên kế hoạch bán đứng tướng Washington cho kẻ địch. Khi mọi chuyện bại lộ, Arnold chạy trốn đến trụ sở quân đội Anh ở New York, ngay sau đó lại dẫn một đội quân đến bang Virginia, đại khai sát giới mở đầu cuộc giết chóc. Quân đội Anh muốn bắt sống thống đốc Florida là Thomas Jefferson tại quê hương của Washington. Người cầm đầu quân Anh đến bắt Jefferson là một kẻ điên cuồng khát máu, đã gây ra những vụ thảm sát khủng khiếp trên chiến trường, một kẻ mà chỉ cần nhắc đến đã đủ khiến nhiều người kinh hãi. Đó chính là Banastre Tarleton, còn gọi là “Bloody Tarleton” (Tarleton khát máu), cũng được gọi là “đồ tể”. Vào một đêm đầy sao, “Tarleton khát máu” đã dẫn đầu đội quân đến Monticello hòng bắt sống thống đốc Jefferson.
Nghe nói rằng thống đốc Jefferson đã đưa gia đình đến nơi ẩn nấp an toàn, nhưng vào buổi sáng hôm ấy ông lại có một cuộc họp tại nhà với các nhà lập pháp tiểu bang. Sau khi nhận được tin báo rằng quân Anh sắp đến, ông vội lấy ống nhòm quan sát. Tại đây có hai nhận định hoàn toàn trái ngược nhau trong các tài liệu lịch sử mà người viết đọc được. Một là: Thống đốc Jefferson dùng ống nhòm nhìn xuống núi, chỉ thấy cánh đồng vắng lặng không một bóng người. Ông vừa định về nhà tiếp tục cuộc họp thì đúng lúc ấy chiếc ống nhòm rơi xuống đất, khi cúi xuống nhặt và vô tình ngẩng đầu lên, ông chợt thấy trên sườn núi tràn đầy quân Anh. Và hai là: Ngài thống đốc trèo lên cao nhìn ra xa, dùng mắt thường mà nhìn không thấy gì khác lạ. Nhưng khi ông nhấc ống nhòm lên và nhìn về phía xa, những gì hiện ra trong ống kính là đội quân Anh đang tiến lên núi. Tóm lại, ngài thống đốc cuối cùng đã xác nhận rằng kẻ thù thực sự đang đến, vì vậy ông quay về nhà để giải tán cuộc họp và tự mình cưỡi ngựa đi ra ngoài.
“Tarleton khát máu” lưu lại Monticello trong chốc lát, tòa kiến trúc này là ngôi nhà có thư viện cá nhân và hầm rượu lớn nhất thuộc địa lúc bấy giờ. Tarleton tựa hồ đã tạm quên đi cuộc chiến tranh trong bầu không khí thanh lịch và yên tĩnh này. Sau khi nếm thử rượu thuộc sở hữu riêng của Jefferson, Tarleton lãnh đạo đội quân và rời đi, không đốt cháy Monticello hay hạ lệnh tiêu hủy bất kỳ thứ gì, nhờ đó đã để lại báu vật vô giá này cho nước Mỹ. Monticello được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới, là một trong những di tích lịch sử quan trọng nhất trong lòng người Mỹ, là “nơi nhất định phải đến trong cuộc đời”.
Xem thêm: Truyền kỳ về tướng Washington (P5): Phụng ý Sáng Thế Chủ, nước Mỹ thành lập
Tống Vi Vi thực hiện
Cửu Ngọc biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ