Truyền kỳ về Tướng Washington (P.22): Cầu nguyện một mình trong tuyết
Mời quý vị đón đọc Loạt bài viết “Truyền kỳ về Tướng Washington.”
Mùa đông tại Valley Forge là thời gian ảm đạm nhất trong Chiến tranh Cách mạng. Ở nơi đó, Tướng Washington đã trải qua tất cả những thất bại mà một nhà lãnh đạo có thể gặp phải, hiểu được xu thế chạy theo quyền lực của nhân tâm và sự lạnh nhạt vô thường của thế thái. Bất kỳ ai muốn bứt phá trong hoàn cảnh như vậy đều phải dựa vào nỗ lực dời non lấp bể của chính mình.
Vào mùa đông năm 1777, Tướng Washington đã dẫn quân đến Valley Forge, một thung lũng gần Philadelphia, nhằm tạo ra khoảng thời gian giúp quân đội hồi phục sức khỏe và sống sót qua mùa đông dài lạnh giá ở miền Đông nước Mỹ. Các ghi chép sử sách sau này đều nói, đó là mùa đông mà Lục quân Lục địa lâm vào cảnh khốn cùng nhất, sinh hoạt khó khăn nhất.
Kỳ thực từ đầu đến khi kết thúc Chiến tranh Cách mạng, Tướng Washington và quân đội của ông luôn trong tình trạng vô cùng quẫn bách, chưa bao giờ hết khốn khó. Lục quân Lục địa luôn trong tình trạng thiếu thốn, quân lính thiếu lương ăn, thiếu áo mặc, không có đủ bánh mì, chăn mền và giày dép, rất nhiều người phải đi chân trần vào mùa đông. Những mùa ấm áp còn tương đối dễ chịu, nhưng mùa đông lạnh giá hàng năm, từ mưa gió đến băng tuyết là cửa ải khó khăn gian nan nhất mà đội quân phải chịu đựng. Thứ duy nhất không thiếu chính là gỗ. Dù sao khắp nơi ở phía đông đều là rừng rậm, có thể chặt gỗ để xây nhà, đốt củi để sưởi ấm. Bên ngoài tuyết rơi dày đặc, binh lính trong nhà gỗ tụ tập quanh đống lửa, đói đến mức hơi thở thoi thóp.
Ở Bắc Mỹ đất đai màu mỡ, sản vật dồi dào, tại sao lại có thể đói như vậy? Đó là bởi vì, Quốc hội lúc đó không có quyền lực hành chính tập trung, cũng không thể trưng thuế đối với người dân. Trưng thuế là việc của các bang. Trách nhiệm hỗ trợ quân đội do 13 bang tự quyết định và các bang tự hỗ trợ quân đội ở bang mình. Vào thời điểm đó, hàng chục nghìn quân Anh đang đóng quân ở miền đông nước Mỹ. Vua George III của Anh đã tỏ thái độ, dù có khiến người Mỹ máu chảy thành sông, thì cũng không cho người Mỹ nền độc lập. Những người dân thường vốn trước đây chỉ tập trung vào những gì trước mặt, thì nay đã sớm sợ hãi trước khí thế này (của nước Anh) từ lâu. Hơn nữa, những người Mỹ nhập cư có dòng dõi là người Anglo-Saxon đều có tình cảm với quê hương và lòng trung thành với Vua Anh. Tình cảm này là bản năng trong máu họ. Vì vậy, trước tình hình đó, người dân đã chia thành phe bảo hoàng và phe cách mạng. Những người theo phe bảo hoàng đương nhiên trung thành với vua Anh và xung đột với Lục quân Lục địa. Hơn nữa, báo chí Anh thời đó thường xuyên đưa tin Tướng Washington sắp bị bắt sống, hoặc đã bị bắt rồi. Trong các trò chơi con rối trên đường phố luôn có cảnh lính Anh mặc áo đỏ đánh Lục quân Lục địa mặc áo xanh bằng gậy. Vào ngày 26/09/1777, quân Anh của Tướng Howe chiếm đóng Philadelphia, Quốc hội Lục địa đã phải nhanh chóng rút khỏi Philadelphia. Sau đó tại Germantown gần Philadelphia, Lục quân Lục địa lặp lại chiến thuật của trận Trenton trước đó và tấn công quân Anh. Kết quả lần này họ gặp vận khí không tốt, cuộc đột kích thất bại. Hai bên giao chiến ác liệt, nhưng không thể chiếm lại Philadelphia. Vì vậy, cả hai bên tạm ngừng chiến sự và trở về doanh trại của mình chờ qua mùa đông.
Những năm tháng ảm đạm nhất
Quốc hội lúc đó đã bị quân đội Anh tấn công buộc phải bỏ chạy. Trong tình huống như vậy, người dân bình thường càng không tùy tiện đứng về phía quân đội. Nếu quân đội của Tướng Washington bại trận, chế độ quân chủ sau đó tìm tới họ buộc tội thì làm thế nào? Vì vậy, trong tình huống này, nguồn cung cấp của các bang hoàn toàn không đủ. Họ khẳng định mình không thể cung cấp và đều tuyên bố đang nghĩ cách. Tướng Washington có thể làm gì đây? Vật tư mà quân đội cần bị thiếu hụt trầm trọng. Thời tiết càng lạnh thì quân doanh càng đói. Vào thời điểm tồi tệ nhất, một ngày cũng không đủ ba bữa, bản thân Tướng Washington cũng nhiều lần phải chịu đói. Các sĩ quan đã thỉnh cầu Tướng Washington trở về trang trại của ông ở phía nam để nghỉ đông. Tất nhiên, vị tướng này lắc đầu từ chối mà không cần suy nghĩ. Ông không thể rời khỏi doanh trại quân đội và những người lính đang gặp khó khăn. Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Cách mạng, ông chưa bao giờ rời quân đội dù chỉ một ngày. Vào lễ Giáng sinh năm đó, theo ghi chép, đồ ăn trên bàn của các sĩ quan chỉ có một lượng rất nhỏ thịt cừu, khoai tây, súp rau và bánh mì, còn thức uống là nước lọc, chỉ có nước lọc.
Doanh trại quân đội đói khát, thiếu thốn y tế và thuốc men. Vì cơ thể không đủ dinh dưỡng nên các bệnh truyền nhiễm như bệnh đậu mùa tràn lan trong trại. Rất nhiều người bị nhiễm bệnh, số binh sĩ thiệt mạng lên tới hàng nghìn. Có người trong số họ thấy tình hình không ổn, tất nhiên họ thực sự quá đói và không thể chịu được nữa, nên đã rời khỏi doanh trại và tháo chạy. Về phần những người lính ở lại, họ còn sức khỏe và đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ quân sự. Một trong những nhiệm vụ của họ khi trực gác hàng ngày chính là chặn những người nông dân vô lương tâm tại các trạm kiểm soát trên đường đi. Những người này tìm kiếm biện pháp và viện nhiều lý do khác nhau để vận chuyển lúa mì thu hoạch được từ kho thóc trong nhà đến bán cho quân đội Anh.
Dải đất Philadelphia và New York xung quanh thung lũng có đất đai màu mỡ, cây rừng rậm rạp và sông hồ lớn. Vùng đất vô cùng màu mỡ này trồng bất kì cây cối gì cũng bội thu. Xung quanh Valley Forge có rất nhiều trang trại và nhà máy xay bột. Những người nông dân sống rất thoải mái vào mùa đông. Họ đốt củi trong bếp, trên đĩa có bánh mì mới nướng thơm phức. Họ biết quân lính rất đói, nhưng họ từ chối bán lương thực cho quân đội Mỹ và chuyển qua bán cho quân đội Anh. Tại sao? Tiền giấy do Quốc hội phát hành có đáng tin cậy không? Vì vậy, họ đã phớt lờ cái đói và cái lạnh của binh lính, đồng thời cũng phớt lờ những thông báo công khai nhiều lần của Quốc hội Mỹ và quân đội Tướng Washington rằng cấm mua bán vật tư với quân đội Anh. Họ vẫn sử dụng các phương pháp khác nhau để vận chuyển ngũ cốc và cỏ đến bán cho hậu cần của quân Anh. Những người nông dân sử dụng đồng bảng Anh và không tin vào tiền giấy. So với tờ giấy mỏng tanh mà Quốc hội Mỹ ban hành, tất nhiên họ sẽ chọn đồng bảng Anh luôn luôn có giá của Đế quốc Anh.
Cầu nguyện trong hoàn cảnh tuyệt vọng
Hoàn cảnh khó khăn đến mức khiến lòng người lạnh lẽo. Nhìn xung quanh, không có nơi nào mà Tướng Washington và quân đội của ông có thể nương tựa, dù đó là Quốc hội hay người dân Mỹ. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, Tướng Washington thường cưỡi bạch mã, đơn độc rời trại, đi sâu vào rừng rậm không có bóng người. Trong rừng, vài con quạ gáy xám đậu trên những cây cổ thụ, tuyết trắng mênh mông. Gió thổi cuốn theo những bông tuyết bay vào mặt vị tướng với cái lạnh thấu xương. Tướng Washington quỳ một chân xuống tuyết, chắp hai tay lại, tư thái khiêm nhường và thành kính giao tiếp với Thiên Thượng, đối thoại với các vị thần canh giữ vùng đất này trong cõi u minh. Ông vì đội quân đang gặp nạn, vì quốc gia non trẻ nhất trên Trái Đất đang chìm trong chiến tranh mà cầu nguyện với Chúa, cầu xin lòng từ bi và phù hộ của Thần linh!
Ở những ngôi làng xung quanh thung lũng nơi quân đội trú đóng có một người xay bột. Ông ấy là một trong những người cất giữ đầy ngũ cốc trong kho nhưng không bán cho quân đội nước Mỹ. Ông ấy tuyên bố mình là người theo phe bảo hoàng và là thần dân trung thành với Vua Anh. Một ngày nọ, ông đi ngang qua khu rừng và nghe thấy giọng nói của ai đó trong khu rừng phủ đầy tuyết, nghe như tiếng rên rỉ và thút thít. Ông nhẹ nhàng bước về phía trước để tìm hiểu và nhìn thấy Tướng Washington một mình quỳ trong tuyết. Vị tướng ấy đang cúi đầu, cau mày, hai tay chắp trước ngực, cầu nguyện các vị Thần và lẩm bẩm về hoàn cảnh của quân binh. Ông cầu xin Thần thương xót và giúp đỡ những người này. Tướng quân chỉ có một mình, xung quanh không có người đi theo hay lính canh, chỉ có con ngựa trắng đứng đằng sau. Những bông tuyết rơi xuống bao phủ cả người và ngựa. Tướng quân tiếp tục cầu nguyện với tư thế bất động, hoàn toàn không để ý thời gian trôi qua, hoàn toàn không biết tới sự hiện diện của người thợ xay bột đó.
Cảnh tượng này đã thay đổi hoàn toàn người xay bột tự nhận là người theo phe bảo hoàng. Khi về nhà và kể lại cảnh tượng này cho vợ nghe, ông ấy đã rơi nước mắt. Ông cũng đem câu chuyện này kể lại cho người dân trong làng. Những dân làng khác cũng không chịu thua kém, họ nói rằng bản thân từng gặp Tướng Washington trong núi sâu, nhìn thấy ông quỳ dưới tuyết hướng lên trời cầu nguyện. Từ đó, những người thợ xay bắt đầu giao lương thực cho các doanh trại quân đội. Với tấm lòng chan chứa ân hận và kính trọng, họ đã hào phóng xay lúa mì trong vựa của mình thành bột rồi gửi cho Lục quân Lục địa. Phía trên doanh trại, khói ấm đã bắt đầu bốc lên. Khi quân đội nhổ trại và rời đi, rất nhiều nông dân địa phương đã gia nhập Lục quân Lục địa.
Mùa đông năm ấy tại Valley Forge là thời kỳ ảm đạm nhất trong Chiến tranh Cách mạng. Trong hoàn cảnh đó, Tướng Washington đã trải qua tất cả những thất bại mà một nhà lãnh đạo có thể gặp phải. Ông cũng hiểu được xu thế chạy theo quyền lực của nhân tâm và sự lạnh nhạt vô thường của thế thái. Bất kỳ ai muốn bứt phá trong hoàn cảnh như vậy đều phải dựa vào nỗ lực dời non lấp bể của chính mình, thế nhưng Tướng Washington đã làm được. Tôi nghĩ, ở Valley Forge đầy gió và tuyết, sâu trong khu rừng lớn, Tướng Washington hẳn đã nhận được sức mạnh từ Chúa và ý chỉ rõ ràng của Sáng Thế Chủ trong cuộc trò chuyện với Trời cao.
(Còn tiếp)