Tình trạng đóng băng công nghệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc khiến các nhà đầu tư, công ty khởi nghiệp Mỹ lo lắng
Theo các chuyên gia, căng thẳng ngày càng tăng giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh đang đặt ra những thách thức mới cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư nhỏ của Hoa Kỳ ngay cả khi hai quốc gia tiếp tục đàm phán về việc hạn chế hiểu lầm chính sách và giảm bớt các rào cản công nghệ.
Các nhà sáng lập và nhà đầu tư Hoa Kỳ nói rằng khi tài chính khan hiếm, những hạn chế mới đối với việc đầu tư vào công nghệ tân tiến ở cả hai quốc gia đang làm nghiêm trọng thêm sự sụt giảm trong các giao dịch giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Ông Gary Dugan, giám đốc đầu tư của nền tảng đầu tư mạo hiểm toàn cầu Dalma Capital có trụ sở tại UAE, đồng thời là một nhà đầu tư vào Trung Quốc có kinh nghiệm, nói với The Epoch Times: “[Đối với một nhà đầu tư Mỹ], không có vấn đề nào lớn hơn căng thẳng thương mại hiện tại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.”
“Sau cuộc bầu cử Hoa Kỳ gần đây nhất, các nhà đầu tư Mỹ đã mong đợi một lập trường ít đối đầu hơn nhiều về các vấn đề thương mại từ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, mong đợi này đã không thành hiện thực.”
Hôm 02/08, Tổng thống Joe Biden đã ban hành sắc lệnh hạn chế đầu tư bằng vốn mạo hiểm, vốn cổ phần tư nhân, và vốn liên doanh của Hoa Kỳ vào trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử, và chất bán dẫn của Trung Quốc.
Mở rộng phạm vi sắc lệnh trước đây của cựu Tổng thống Donald Trump, sắc lệnh này là một phần trong chiến lược rộng lớn hơn của chính phủ Tổng thống Biden nhằm chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của ĐCSTQ và thách thức các hành vi vi phạm nhân quyền, hoạt động thương mại, và tham vọng công nghệ của ĐCSTQ.
Cùng ngày, chính phủ cũng mở rộng việc xem xét các khoản đầu tư vào Trung Quốc, đặc biệt là những khoản đầu tư có thể sử dụng cho mục đích quân sự hoặc có liên quan đến an ninh quốc gia.
Đáp lại những hạn chế của Hoa Kỳ bằng những lời chỉ trích, tuyên bố bày tỏ lo ngại, và các biện pháp đáp trả, Bắc Kinh đã trả đũa các biện pháp này bằng cách áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với một số cá nhân và tổ chức Hoa Kỳ, cấm một số công ty Hoa Kỳ như Micron Technologies kinh doanh tại Trung Quốc, và phát động một cuộc điều tra chống độc quyền đối với một số công ty công nghệ của Hoa Kỳ, chẳng hạn như Deloitte, Bain & Company, Capvision, và Mintz Group.
Ngoài ra, Bắc Kinh đã áp đặt các biện pháp kiểm soát tiền tệ để hạn chế dòng vốn chảy ra ngoài, khiến các nhà đầu tư Trung Quốc gặp khó khăn hơn trong việc tài trợ cho các công ty khởi nghiệp Hoa Kỳ.
“Các hạn chế đối với thương mại đang diễn ra nhanh chóng… cung cấp rất ít định nghĩa về cách Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ hợp tác với nhau trong tương lai,” ông Dugan cho biết. “Ví dụ, các hạn chế đối với việc chuyển giao công nghệ cũng như dòng sản phẩm và dịch vụ vẫn rất lỏng lẻo và có nhiều cách giải thích.”
Ông Dugan cho biết, các nhà đầu tư luôn gặp khó khăn trong việc dự đoán và giải quyết xung đột chính trị giữa các quốc gia, và sự căng thẳng hiện nay đã tạo ra hiệu ứng lo sợ đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ muốn tránh rủi ro pháp lý hoặc lệnh trừng phạt.
Giảm khả năng tiếp cận thị trường công nghệ của Trung Quốc
Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là một trong những thị trường hấp dẫn cho các công nghệ mới nổi như trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử, và công nghệ sinh học, vì vậy nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ đã bị thu hút vào lĩnh vực công nghệ của nước này.
Ví dụ, theo báo cáo Venture Pulse của KPMG trong quý đầu tiên năm nay, đầu tư vốn mạo hiểm (VC) vào Trung Quốc đạt tổng cộng 7.4 tỷ USD do hoạt động VC tăng lên trong nửa cuối quý sau khi làn sóng COVID-19 giảm bớt.
Tuy nhiên, nguồn tài trợ VC cho các công ty khởi nghiệp ở Trung Quốc đã giảm 44.8% so với cùng thời kỳ từ tháng Một đến tháng Tư, đạt 11.6 tỷ USD so với 21.2 tỷ USD vào cùng thời kỳ năm ngoái.
Trong khi chỉ thị của Tổng thống Biden hạn chế các nhà đầu tư Hoa Kỳ tiếp cận ngành công nghệ Trung Quốc, các hành động trả đũa của Bắc Kinh cũng đang ngăn trở các công ty Hoa Kỳ tìm kiếm đầu tư từ Trung Quốc hoặc niêm yết trên thị trường chứng khoán Trung Quốc vì sợ bị chính phủ Hoa Kỳ trừng phạt hoặc hủy niêm yết.
Theo dữ liệu của PitchBook, các giao dịch Trung Quốc liên quan đến một nhà đầu tư mạo hiểm Hoa Kỳ đạt khoảng 200 triệu USD trong quý 2 so với 2.4 tỷ USD của năm trước và 3.8 tỷ USD vào năm 2019, trước khi đại dịch xảy ra.
Ông Karan Gupta, nhà đầu tư kỳ cựu hiện đang sinh sống tại thung lũng Silicon và là người sáng lập công ty khởi nghiệp Alice dựa trên AI, cho biết điều này cũng hạn chế khả năng của các nhà đầu tư Hoa Kỳ trong việc khai thác cơ sở tài năng và đổi mới công nghệ của Trung Quốc.
“Thật khó đối với tôi để tìm ra lý do cho việc đầu tư vào Trung Quốc trong hoàn cảnh hiện tại,” ông Gupta nói với The Epoch Times. “Đối với tôi, cho dù đó là mở rộng kinh doanh hay đầu tư vào các công ty có trụ sở tại Trung Quốc, thì các quy định, nền kinh tế Trung Quốc, và thái độ của các quốc gia lớn khác, trong đó có Hoa Kỳ và Anh quốc, và việc sửa đổi vai trò toàn cầu của Trung Quốc, cũng là những yếu tố dẫn dắt.”
Gia tăng cạnh tranh từ các đối thủ của Trung Quốc
Tuy nhiên, trong khi thực tế về mặt thực thi như sự giám sát pháp lý chặt chẽ hơn, nền kinh tế trì trệ, và căng thẳng địa chính trị là những lý do khiến các nhà đầu tư và doanh nhân thận trọng hơn với Trung Quốc, thì sự cạnh tranh từ các thị trường khác cũng khiến họ phải tìm kiếm nơi khác.
Ông Gupta nói, “Có một thị trường toàn cầu đủ lớn, và các quốc gia khác sẵn sàng đề nghị cung cấp các điều kiện tốt — ví dụ như Ấn Độ [và] Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất. Trừ phi quý vị có một doanh nghiệp cần phải ở Trung Quốc, quý vị có thể tránh được sự giám sát và lo lắng không cần thiết.”
Quả thực, Trung Quốc phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các quốc gia khác trong nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, công nghệ, an ninh, và ngoại giao. Ngoài Hoa Kỳ, còn có các đối thủ khác là Ấn Độ, Úc, Nhật Bản, và Nga.
Đặc biệt ở khu vực Nam Á, Ấn Độ, quốc gia có chung đường biên giới dài và bị tranh chấp với Trung Quốc, được nhiều người coi là một đối thủ cạnh tranh chiến lược. Ấn Độ cũng cảnh giác với Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc, vốn được coi là vòng vây chiến lược và bẫy nợ đối với các quốc gia láng giềng.
Trong những năm qua, Ấn Độ cũng đã liên kết với Hoa Kỳ và các quốc gia có cùng quan điểm khác trong khuôn khổ Bộ Tứ, nhằm mục đích bảo đảm một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở. Quan hệ đối tác chiến lược Đối thoại An ninh Tứ giác, thường được gọi là Bộ Tứ, gồm bốn nước Ấn Độ, Hoa Kỳ, Úc, và Nhật Bản.
Tương tự, Nhật Bản là đối thủ đáng gờm của Trung Quốc ở Đông Á, vì giữa hai nước có lịch sử đối kháng và ngờ vực. Nhật Bản cũng bày tỏ lo ngại về việc hiện đại hóa quân sự cũng như cách hành xử hung hăng của chính quyền Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt là ở eo biển Đài Loan và Biển Đông, đồng thời nước này cũng đã tăng cường hợp tác an ninh với Hoa Kỳ và các đồng minh khác để chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Theo các chuyên gia, Nga cũng có mối quan hệ phức tạp với Trung Quốc, dao động giữa việc trở thành một “liên minh mới nổi” và một “đối thủ vĩnh cửu.” Một mặt, Nga và Trung Quốc đã hợp tác trong nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm năng lượng, thương mại, quốc phòng, và chủ nghĩa đa phương, đồng thời tương trợ lẫn nhau trước những áp lực và lệnh trừng phạt của phương Tây.
Tuy nhiên, Moscow và Bắc Kinh có những lợi ích và mối quan tâm trái ngược nhau trong các khu vực mà hai nước cạnh tranh giành ảnh hưởng và tài nguyên, như Trung Á, Bắc Cực, và Trung Đông. Nga cũng lo ngại mất quyền tự chủ chiến lược và trở thành đối tác cấp dưới của Trung Quốc về lâu về dài.
Ông Dugan cho biết: “Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đang dẫn đến việc khu vực hóa các cơ hội đầu tư.”
Các chuyên gia tin rằng chỉ thị của Tổng thống Biden và sự trả đũa của chính quyền Trung Quốc phản ánh sự ganh đua, cạnh tranh, và bất đồng ngày càng tăng giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh trong nhiều vấn đề khác nhau. Diễn biến này có thể sẽ định hình tương lai của bối cảnh khởi nghiệp toàn cầu.
Vân Du biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times