Tại sao Phật Thích Ca Mâu Ni tu đắc chính quả vẫn phải chịu quả báo?
Phật gia giảng tất cả sinh mệnh đều trong nhân quả luân hồi. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni đạt được tự tại, giải thoát và độ chúng sinh, ngài vẫn còn gặp phải chuyện quả báo. Trong đó có báo ứng ba tháng phải ăn lúa mạch dành cho ngựa, báo ứng đau đầu và báo ứng bị vu khống hãm hại. Phật Đà đã tu thành chính quả, tại sao vẫn phải chịu quả báo?
Báo ứng ba tháng ăn lúa mạch dành cho ngựa
Phật Thích Ca Mâu Ni và năm trăm vị La Hán môn đệ được một Bà La Môn mời đến thành Tì Lan để cung dưỡng an cư trong ba tháng. Tuy nhiên, do một số tình huống kỳ lạ phát sinh nên cuối cùng Phật Đà và chúng đệ tử lại không nhận được cung dưỡng. Phật Thích Ca Mâu Ni cùng đệ tử đi hóa duyên, nhưng cũng không xin được đồ ăn. Vì vậy, ông cùng các đệ tử của mình phải ăn lúa mạch dành cho ngựa trong suốt ba tháng.
Trong “Phật thuyết hưng khởi hành kinh” có ghi lại, trong suối lớn A Nậu, Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng cho đệ tử một đoạn liên quan giữa duyên tiền kiếp và đoạn nghiệp báo này.
Đức Phật giảng rằng rất nhiều kiếp về trước, Tỳ Bà Diệp Như Lai đã được quốc vương và người dân long trọng lễ bái cúng dường tại thành Bàn Đầu Ma Bạt. Lúc đó có một “Phạm Chí” của Bà La Môn (tu sĩ ngoại đạo tu khổ hạnh), tên là Nhân Đề Kỳ Lợi, là sư phụ của một sơn môn, dạy bảo năm trăm đồng tử.
Có một lần, Quốc vương mở yến tiệc chiêu đãi Tỳ Bà Diệp Như Lai và chúng đệ tử của ông. Họ thuận theo tâm ý của Quốc vương, cầm bình bát đến. Lúc ấy có một tỳ kheo bị bệnh không thể đi được. Đoàn người đến dự tiệc, sau khi yến tiệc kết thúc thì mang thức ăn về cho vị tỳ kheo bị bệnh. Khi họ trở về, đi ngang qua núi thì gặp Phạm Chí Nhân Đề Kỳ Lợi. Nhìn và ngửi thấy thức ăn rất thơm ngon, trong lòng Phạm Chí nổi lên sự đố kỵ, nói: “Sa môn đầu trọc thì chỉ nên ăn lúa mạch dành cho ngựa, không nên ăn những món cao lương mỹ vị này.” Nói rồi, ông ta cố ý hỏi năm trăm đệ tử của mình: “Các ngươi xem những sa môn đầu trọc này, có nên ăn các món ngon không?” Năm trăm đồng tử thuận theo ý của thầy, thưa rằng: “Không chỉ những người này, mà cả sư phụ của họ, cũng phải ăn lúa mạch dành cho ngựa.”
Thích Ca Mâu Ni nói với các đệ tử của mình: “Sơn Vương Phạm Chí trong kiếp đó chính là ta bây giờ, còn năm trăm đồng tử kia là năm trăm La Hán các con.” Vì lời nói đố kỵ, họ phải chịu báo ứng và phải chịu vô số kiếp trong địa ngục.
Tuy nhiên, vẫn chưa hết báo ứng. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni tu thành chính quả, vẫn phải chịu báo ứng ba tháng ăn lúa mạch dành cho ngựa. Thích Ca Mâu Ni đi hóa duyên, có thể ăn được nhân lúa mạch dành cho ngựa, nhưng năm trăm vị La Hán chỉ có được vỏ trấu. Nguyên do là vì năm trăm đồng tử trong kiếp đó không chỉ nói lời xúc phạm Tỳ kheo, mà còn xúc phạm Tỳ Bà Diệp Như Lai.
(Nguồn: “Phật thuyết hưng khởi hành kinh”)
Quả báo Đức Phật đau đầu
Khi Đức Phật ở A Nậu Đại Tuyền, ngài đã nói với Xá Lợi Phất về nhân duyên kiếp trước: “Rất lâu trước kia, ở trong thành La Duyệt Kỳ xảy ra nạn đói. Mọi người phải nhặt xương trắng nấu canh, đào đủ loại rễ cỏ để duy trì sinh mệnh yếu ớt. Một thăng vàng chỉ có thể đổi được một thăng ngũ cốc. Khi đó ở trong thành La Duyệt Kỳ có một thôn trang lớn tên là Chi Việt. Cách thôn trang này không xa về phía Đông có một cái ao, gọi là Ao nhiều cá. Người dân làng Chi Việt đưa thê tử đến ao, bắt cá làm thức ăn. Khi đó, mọi người bắt được cá đều để cá lên bờ rồi chế biến. Cá nhảy loạn trên mặt đất.
Lúc đó ta chỉ là một đứa trẻ, mới bốn tuổi, nhìn thấy cá nhảy trên mặt đất, cảm thấy rất vui. Lúc đó trong ao có hai loại cá, một loại gọi là Phu ngư và một loại gọi là Đa Thiệt ngư. Chúng nói với nhau: ‘Chúng ta không đắc tội với con người, chỉ vì bị người ta nhìn thấy liền bị bắt. Đời sau chúng ta nhất định phải báo mối thù này.’”
Phật Đà hỏi Xá Lợi Phất: “Con có nhớ nam nữ già trẻ của thôn Chi Việt khi đó không? Một số họ tộc Thích Ca của nước Ca Tỳ La Việt hiện nay chính là họ khi đó. Đứa trẻ khi đó là ta. Con cá Phu ngư chính là Vua Tỳ Lâu Lặc; con cá Đa Thiệt chính là tướng soái của Vua Tỳ Lâu Lặc ngày nay. Khi đó, lúc con cá nhảy lên, ta đã dùng cái gậy nhỏ đánh vào đầu cá. Bởi vì nhân duyên này, ta bị đọa vào địa ngục, chịu khổ mấy ngàn năm. Mặc dù hiện nay ta đã chứng đắc quả vị A Duy Tam Phật, nhưng do nhân duyên còn sót lại này, khi Vua Tỳ Lâu Lặc tấn công gia tộc Thích Ca, ta sẽ bị đau đầu.”
(Nguồn: Phật thuyết đầu thống trong “Túc duyên Kinh số 3”)
Báo ứng bị vu khống
Trong “Hưng khởi hành kinh” ghi chép, một phụ nhân nhìn như đang mang thai bước vào tinh xá của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bất chấp việc Ngài đang thuyết pháp cho các đệ tử, nàng ta đi đến rồi chỉ thẳng vào Đức Phật nói: “Sa môn! Ông đã làm cho tôi quá đau khổ. Ông đã làm cho tôi có thai, lại nhẫn tâm bỏ mặc tôi, trốn ở đây tiêu diêu tự tại. Bây giờ, cuối cùng tôi đã tìm được ông rồi. Ông nói đi, ông sẽ sắp đặt cho tôi như thế nào?”
Phụ nhân này là ai? Nàng ta là Bà la môn Chiên Sa. Kỳ thực, nàng không có thai, mánh khóe của nàng đã bị các đệ tử của Đức Phật vạch trần. Hóa ra, nàng đã nhét chiếc chậu gỗ vào trong y phục của mình, giả vờ mang thai rồi vu khống cho Đức Phật.
Lúc bấy giờ, các đệ tử nghe Pháp đều thắc mắc: Tại sao Đức Phật đã đạt được giải thoát tự tại mà vẫn phải chịu quả báo như vậy? Xá Lợi Phất thay mặt các đệ tử xin thỉnh giáo Đức Phật.
Đức Phật liền khai thị ngay tại chỗ. Đức Phật giảng: “Trước kia, rất lâu rất lâu rồi, trong thành Ba La Nại, có một nữ nhân xinh đẹp tên là Thiện Huyễn, là thê tử của trưởng giả Đại Ái. Nàng ấy rất tôn kính người tu hành. Có hai vị pháp sư thường xuyên được nàng cung dưỡng là Vô Thắng và Thường Hoan. Vô Thắng pháp sư tu hành vô cùng tinh tấn, đức hạnh rất cao, bởi vậy được đại chúng tôn trọng hơn; còn về phần Thường Hoan pháp sư, tuy là một người tu hành, nhưng thói xấu nơi thế tục lại không trừ bỏ hết. Thiện Huyễn tôn kính Vô Thắng pháp sư, cung dưỡng ông rất đầy đủ, còn đối với Thường Hoan pháp sư thì chỉ cung dưỡng một chút mà thôi. Lâu ngày, trong lòng Thường Hoan pháp sư nổi lên ngọn lửa đố kỵ. Ông ta tung tin bịa đặt khắp nơi trong thành, nói rằng Thiện Huyễn và Vô Thắng pháp sư tư thông với nhau.”
Đức Phật nói đến đây, dừng lại một lúc, sau đó nói với các đệ tử: “Các con có biết vị Thường Hoan pháp sư kia là ai không? Chính là tiền thân của ta trong một kiếp người. Bởi vì ta đã từng ác ý phỉ báng người tu hành có đức, cho nên bị đọa vào địa ngục chịu vô số kiếp, chịu nỗi khổ lửa mạnh thiêu thân. Ta hiện tại tuy rằng công đức thành tựu, nhưng tai ương vẫn chưa hết, cho nên phải chịu quả báo bị phỉ báng.”
(Nguồn: Phật thuyết Bà la môn Chiên Sa báng Phật duyên Kinh số 8 trong “Phật thuyết hưng khởi hành kinh”).
***
Trong “Đại Bảo Tích Kinh – quyển 57” có một đoạn kệ:
“Giả sử kinh bách kiếp,
Sở tác nghiệp bất vong,
Nhân duyên hội ngộ thời,
Quả báo hoàn tự thụ.”
Ý rằng: dù trải qua một trăm kiếp, nghiệp đã tạo ra vẫn không mất đi, khi nhân duyên hội ngộ, quả báo đến thì phải chịu.
Lời này đã điểm ngộ cho thế nhân: Những việc tốt đã làm và nghiệp ác đã tạo của một người, bất kể thời gian dài đến đâu, sẽ không tự động mất đi. Cho dù trải qua thời gian dài hơn một trăm kiếp, thì nghiệp lực vẫn tồn tại ở đó; khi nhân duyên đến, sẽ phải chịu hoàn trả. Tất cả tai ương và bất hạnh của đời người, kỳ thực đều là nghiệp do đời trước tạo ra, tự làm tự chịu mà thôi. Câu chuyện Phật Thích Ca Mâu Ni phải chịu quả báo đã chứng minh điểm này.