‘Thập ác bất xá’ là những tội gì? Làm sao để được tha thứ?
Thành ngữ “Thập ác bất xá” là nói đến 10 tội ác không thể tha thứ. Tội ác này được định trong luật pháp khi nào? Phật giáo có nói về “Thập ác”, cùng với pháp luật là có kiến giải khác nhau. Chính trị nói pháp luật và hình phạt, Phật gia giảng tội ác và sự tha thứ.
Con người trên thế gian ai không phạm lỗi!? Con người muốn biết nhất chính là làm sao để được tha thứ vì trong vô minh mà đã phạm tội “Thập ác bất xá”! Tội lỗi và sự tha thứ, làm thế nào để được tha thứ? Pháp luật và Phật Pháp cũng có kiến giải và khái niệm khác nhau.
Hình pháp thập ác chi điều (Mười điều ác vi phạm pháp luật phải chịu hình phạt)
Mục đích của hình phạt thời cổ đại nhằm “Tiễn loạn trừ bạo, cấm nhân vi phi” (Diệt loạn trừ bạo, cấm người làm sai). Mười điều trọng tội thời Nam Bắc Triều có trong “Tề luật thập nhị thiên”. Mười điều ác được trình bày rõ ràng là những tội gì?
Vào năm thứ ba triều đại Bắc Tề, Vũ Thành Đế Hà Thanh, Lệnh thượng thư, Triệu quận vương cùng một số người dâng lên “Tề luật thập nhị thiên” (Luật Bắc Tề), trong đó ghi rõ 10 điều trọng tội: “Một là phản nghịch, hai là đại nghịch, ba là phản bội, bốn là hàng (giặc), năm là ác nghịch, sáu là bất đạo, bảy là bất kính, tám là bất hiếu, chín là bất nghĩa, mười là nội loạn”.
Hình phạt của luật Bắc Tề thuộc dạng ‘nghiêm hình tuấn phạt’ (cách trị tội gọi là ‘hình’, có tội lấy hình pháp mà trừng trị gọi là ‘phạt’, ở đây ý nói phạt trọng hình nghiêm khắc), tội nhân phạm thập ác không thể chuộc tội. Chính là không được dùng tài vật hay lao dịch để tiêu tội hay miễn trừ hình phạt, phải nhận lấy hình phạt hoặc chịu tử hình. Đây cũng là nguyên nhân gọi là “thập ác bất xá”.
Vào đầu thời kỳ Tùy Văn Đế khai quốc, thế kỷ thứ sáu sau Công nguyên, Lệnh Cao Quýnh cùng một số người đặt ra luật mới, đa phần đều dùng pháp luật gốc của Bắc Tề mà có chút điều chỉnh. Trong đó danh mục thập ác là đại đồng tiểu dị (phần lớn là giống nhau chỉ có chút ít khác nhau). Mười điều thập ác trong “Tùy thư, quyển 25 ghi chép 1o hành pháp” tuần tự là: “Một là mưu phản, hai là mưu đại nghịch, ba là mưu bạn, bốn là ác nghịch, năm là bất đạo, sáu là đại bất kính, bảy là bất hiếu, tám là bất mục (không hòa thuận), chín là bất nghĩa, mười là nội loạn”.
Triều Tùy Văn Đế, cũng có điều mục đặc biệt để giảm hình phạt cho tội nhân phạm thập ác, gọi là “Bát nghị”, là tám loại thân phận có khả năng được giảm hình, bao gồm: thân親, cố故, hiền賢, năng能, công功, quý貴, cần勤, tân賓. [1] Nhưng phải bỏ nguyên quán và hủy bỏ tư cách ban đầu (trừ danh).
Sau khi Tùy Văn Đế ban hành pháp luật mới, người phạm tội vẫn không ít đi, Tùy Văn Đế xem xét lại thấy pháp luật quá nghiêm, lệnh cho Tô Uy, Ngư Hoằng và một số người khác sửa đổi tân luật, loại bỏ 81 tội chết cùng trăm ngàn thứ hình phạt khác. Từ khi hình phạt được ngắn gọn, thông suốt mà không mất.
Thập ác chi tội (Tội thập ác)
Ở đây thuyết minh đơn giản về tội Thập ác:
1/ Mưu phản謀反: có mưu đồ làm nguy hại quốc gia đất nước.
2/ Mưu đại nghịch謀大逆: có mưu đồ hủy hoại miếu thờ tổ tông vua, sơn lăng (lăng mộ vua), cung vua.
3/ Mưu bạn謀叛: có mưu đồ phản bội tổ quốc, đầu địch.
4/ Ác nghịch惡逆: đánh đập hay mưu sát ông bà, cha mẹ hoặc các trưởng bối trực hệ: chú bác cô dì, anh chị, vợ chồng v.v.
5/ Bất đạo 不道: giết ba người một nhà và phanh thây người, hạ độc vật nuôi, phù chú yểm cầu hại người ta chết.
6/ Đại bất kính 大不敬: có hành vi bất kính đối với vua. Gồm có: ăn cắp đồ cúng tế Thần, các vật xe kiệu y phục của vua; ăn cắp và ngụy tạo quốc bảo; chế tạo thuốc cho vua không có công hiệu như ban đầu mà lại ghi gây hiểu lầm; như làm cơm cho vua, ngộ phạm cấm kỵ của ẩm thực; lái thuyền cho vua, sai sót không chặt chẽ; trách mắng vua làm hại lẽ phải, không giữ Lễ.
7/ Bất hiếu不孝: làm trái Hiếu đạo. Mắng ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ còn đó mà ra ngoài lập nhà riêng, chia tài sản, cung dưỡng thiếu sót đối với cha mẹ. Trong lúc để tang cha mẹ mà cử hành cưới hỏi, bỏ tang phục mà làm như bình thường. Nghe thấy tang ông bà cha mẹ mà lánh mặt, trốn tránh chẳng thương xót, hoặc giả bảo là ông bà cha mẹ đã chết rồi.
8/ Bất mục不睦: chỉ trong gia tộc mưu hại lẫn nhau, bao gồm mưu sát hoặc buôn bán người thân trong gia tộc. Người thân ở đây nói đến là “Đại công” (* các loại người mặc tang phục) cho đến người tôn trưởng và “Tiểu công” họ hàng (* bà con) [2]
9/ Bất nghĩa不義: là nói đối đãi giữa lớn nhỏ, kẻ dưới với người trên, ấu tàn hại trưởng, còn có phụ nữ đối với trượng phu bất nghĩa.
Gồm cả: giết quan viên chính phủ, quan thứ sử, quan huyện, giết thầy dạy học, giết quan ngũ phẩm, cho đến vợ để tang chồng mà trốn tránh chẳng thương xót, bỏ áo tang để tái hôn.
10/ Nội loạn內亂: chỉ trong thân tộc có hành vi bất luân. Bao gồm: các loại “Tiểu công” gian dâm lấy người bề trên ngang với cha mình làm thiếp.
Thập ác trong kinh Phật và nghiệp báo
Trong Phật giáo cũng có nói đến hành vi “Thập ác” sẽ nhận lấy quả báo ác nghiệp. Trong “Vị tằng hữu kinh” lấy Sát sinh, Thâu đạo (trộm cướp), Tà dâm, Vọng ngữ (nói dối, nói bậy), Lưỡng thiệt (nói hai lời), Ác khẩu, Khỉ ngữ (nói thêu dệt), Tật đố, Sân khuế (oán giận), Kiêu mạn tà kiến làm “Thập ác”. (Xem “Pháp Uyển Châu Lâm chương 89”).
Khởi tội thập ác là vì thân hành động, không tu khẩu hoặc nảy sinh ý niệm chấp trước của bản thân.
Khởi thân bất thiện: sát殺(giết người), đạo盜(trộm cướp), tà dâm邪淫. Khởi khẩu bất thiện tạo khẩu nghiệp: vọng ngôn妄言(* cuống vọng誑妄, nói dối nói bậy), lưỡng thiệt兩舌(* nói chia rẽ), ác khẩu惡口(* ác ngữ), khỉ ngữ綺語(* uế ngữ tà ngữ, nói xấu nói lệch, thêu dệt). Khởi ý niệm bất thiện, chấp trước vào bản thân, tâm tranh đấu, tâm hiển thị, tật đố, oán giận (* thù hận, tức giận), kiêu mạn tà kiến (kiêu căng ngạo mạn hiểu biết lệch lạc).
Phật gia giảng, thập ác của người đều sẽ nhận ác báo.
Câu chuyện “Mục Kiền Liên cứu mẹ” hay được diễn lại trong các vở kịch trên sân khấu, mẹ của Mục Kiền Liên, một đệ tử của của Đức Phật lúc sinh thời không tu phúc, phạm đủ Thập ác, bởi vậy mà rơi vào địa ngục ngạ quỷ nhận nghiệp báo ác. Cho dù Mục Kiền Liên là đệ tử thần thông đệ nhất của Phật cũng cứu không được mẹ mình, thần thông quảng đại của ông cũng không giúp xoay chuyển được tội nghiệp đại ác của mẹ; người với người tự mình tạo tội nghiệp thì cần phải tự mình hoàn trả.
Kinh Phật khuyên con người chân thành sám hối sửa đổi, tu thiện, tu khẩu, tu bỏ ích kỷ của mình, có thể thay đổi vận mệnh. Cho nên, con người trong mê mà phạm tội “Thập ác bất xá”, làm sao để được tha thứ xóa bỏ đây? Vẫn có thể qua chịu khổ mà hoàn nghiệp, qua cải thiện bản thân, tu thiện vị tha, tu hành khứ tư (gạt bỏ vị tư), mà đắc được thiện đức chuyển hóa nghiệp lực của mình. Phật gia giảng, chủ nguyên thần của con người là bất diệt, đức và nghiệp của con người đều đi theo nguyên thần. Hoàn trả hết nợ nghiệp, có thể có tương lai tốt đẹp, có thể đã bắt đầu một sinh mệnh mới.
Chú thích:
[1] Bát nghị: Một là nghị thân (bà con họ hàng), hoàng đế đang để tang, thái hoàng thái hậu, thân tộc của hoàng thái hậu (mẹ vua), bà con của hoàng hậu. Hai là nghị cố, người cố cựu (người xưa cũ, đã chết). Ba là nghị hiền, là người có đại đức hạnh. Bốn là nghị năng, là người có đại tài nghệ. Năm là nghị công, là có đại công lao. Sáu là nghị quý, là quan chức tam phẩm trở lên, tán quan nhị phẩm trở lên, và người có tước vị nhất phẩm. Bảy là nghị cần, là người có công lớn vất vả chăm chỉ. Tám là nghị tân, là người kế tục tổ tiên sau này làm quốc khách.
[2] “Đại công”, “Tiểu công” đều là một trong năm loại tang phục, luật pháp này lấy các loại tang phục khái quát nên mối quan hệ thân thuộc với đối phương, phục tang “Đại công” mặc trong chín tháng, là tang phục của bà con gần với ông bà; phục tang “Tiểu công” mặc năm tháng, là phục tang của ông cố, ông (bà) chú (bác), vợ của anh em.
Tham khảo nguồn:
“Thông Điển” của Đỗ Hữu
“Tùy Thư” của Ngụy Trưng
“Pháp Uyển Châu Lâm”
Chịu trách nhiệm biên tập: Vương Du Duyệt
Tác giả: Dung Nãi Gia
Biên dịch: Lê Trần