Dân số — cơ sở kinh tế đang thu hẹp của Trung Quốc
Công bố số liệu thống kê mới nhất của Trung Quốc dường như đã gây xôn xao dư luận. Bắc Kinh đã thông báo rằng dân số Trung Quốc đã thẳng thừng giảm — khoảng 850,000 người — kể từ cuộc điều tra dân số lần trước.
Ấn tượng hơn nữa, các nhà nhân khẩu học của Liên Hiệp Quốc nhận thấy dân số Trung Quốc tiếp tục giảm từ mức 1.4 tỷ hiện nay xuống còn 1.3 tỷ vào năm 2050, rồi xuống còn 800 triệu hoặc hơn vào cuối thế kỷ này. Chắc hẳn, các phương tiện truyền thông đã suy tưởng, xu hướng đáng chú ý này sẽ có tác động tiêu cực đến triển vọng kinh tế Trung Quốc.
Sự suy tưởng này là chính xác. Thực tế nhân khẩu học ở Trung Quốc sẽ có tác động xấu đến nền kinh tế của quốc gia này. Nhưng ý nghĩa kinh tế ít nằm ở số liệu tổng thể về dân số hơn là ở quy mô tương đối của dân số lao động Trung Quốc. Quy mô dân số lao động đang giảm nhanh hơn dân số nói chung, điều này sẽ hạn chế nghiêm trọng triển vọng tăng trưởng của quốc gia này — không phải ngay lập tức mà là với cường độ ngày càng tăng trong những năm tới. Những xu hướng nhân khẩu học này sẽ khiến các tác động kinh tế xấu trở nên nghiêm trọng hơn bằng cách tăng mức nợ trong nền kinh tế vốn đã nợ nần chồng chất này. Hơn nữa, Bắc Kinh có thể làm rất ít để giảm thiểu những tác động không mong muốn đó.
Cân nhắc kinh tế quan trọng là có bao nhiêu người Trung Quốc trong độ tuổi lao động để hỗ trợ dân số về hưu phụ thuộc của nước này. Do Bắc Kinh áp đặt chính sách một con đối với các gia đình Trung Quốc từ năm 1980 đến năm 2015, quốc gia này hiện phải đối mặt với tình trạng có tương đối ít lao động để thay thế thế hệ đông đảo hiện đang về hưu. Số người trong độ tuổi lao động — theo quy ước, từ 15 đến 64 tuổi — hầu như không tăng kể từ năm 2010.
Nhưng dân số Trung Quốc trong độ tuổi về hưu cao niên hơn đã tăng tới 53%, tăng từ mức 9% tổng dân số năm 2010 lên 13% ở lần tính toán cuối cùng. Do đó, ngày nay, chỉ có 3.5 người trong độ tuổi lao động là có sẵn để hỗ trợ cho mỗi người về hưu, giảm từ khoảng 6.5 năm 2000 xuống còn 5.5 năm 2010. Và con số này dự kiến sẽ giảm xuống dưới 2.3 lao động trên mỗi người về hưu vào năm 2030 và thậm chí còn thấp hơn trong những năm tiếp theo.
Hoàn cảnh này có ý nghĩa kinh tế sâu sắc. Không có ba người lao động nào ở bất cứ nơi đâu có năng suất đủ để nuôi sống chính bản thân họ, những người phụ thuộc cá nhân của họ, và một phần ba mọi thứ mà mỗi người về hưu cần. Sự căng thẳng sẽ lớn hơn rất nhiều so với những gì các con số sơ bộ này ngụ ý bởi vì dân số già lớn sẽ nhất thiết hút lao động từ sản xuất hàng ngày sang các dịch vụ y tế và chăm sóc khác mà người cao niên cần. Sự căng thẳng này sẽ để lại rất ít sản lượng dư thừa cho các khoản đầu tư cần thiết cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là các dự án lớn nổi tiếng đặc trưng của Trung Quốc và đã góp phần vào tốc độ tăng trưởng ấn tượng trước đây của nước này.
Nếu những xem xét trước mắt về kinh tế này là chưa đủ mạnh, thì nhân khẩu học của Trung Quốc sẽ có những tác động tài chính bất lợi đáng kể. Nhu cầu lương hưu của những người về hưu này sẽ buộc chính phủ địa phương cũng như Bắc Kinh phải vay nợ rất nhiều. Trung Quốc đã đang mang một gánh nặng nợ lớn hơn hầu hết các quốc gia, kể cả Hoa Kỳ. Cuối cùng, tất cả các khoản nợ công và nợ tư đã lên tới tương đương khoảng 52 ngàn tỷ USD, gần gấp ba lần quy mô nền kinh tế Trung Quốc.
Chắc chắn, Hoa Thịnh Đốn có một gánh nặng nợ (công) lớn hơn Bắc Kinh, nhưng đó là do Bắc Kinh giảm bớt nhu cầu đi vay để hỗ trợ chi tiêu cơ sở hạ tầng, chẳng hạn như cho các chính phủ địa phương. Nhu cầu lương hưu sẽ làm tăng thêm gánh nặng này và chắc chắn sẽ lấn át các dự án thúc đẩy tăng trưởng mà trong quá khứ đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của Trung Quốc.
Và Bắc Kinh có thể làm rất ít để bù đắp những tác động xấu này. Vài năm trước, các nhà chức trách cuối cùng đã nhận ra những thiệt hại kinh tế tiềm tàng của chính sách một con. Họ đã hủy bỏ luật này và cho phép các gia đình có nhiều thành viên hơn. Nhưng ngay cả khi người Trung Quốc đã ngay lập tức tận dụng tình huống đó, thì cũng phải mất 15–20 năm để sự thay đổi này có tác động đến quy mô tương đối của dân số trong độ tuổi lao động của Trung Quốc. Vậy là, tỷ lệ sinh của quốc gia này vẫn chưa tăng theo luật mới. Trung Quốc cũng không có khả năng chứng kiến một làn sóng nhập cư để mở rộng lực lượng lao động.
Con đường duy nhất khác còn để ngỏ cho việc cứu trợ là tăng năng suất của người lao động. Để đạt được mục tiêu này, Bắc Kinh đã nhấn mạnh đến việc phát triển và áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và người máy. Thật vậy, Trung Quốc đã trở thành một nhà lãnh đạo thế giới trong các lĩnh vực này. Theo thời gian, những xu hướng này chắc chắn sẽ thay thế các thuật toán, máy điện toán, và máy móc cho lao động, đồng thời giúp lực lượng lao động tương đối hạn chế của quốc gia này trở nên năng suất hơn so với hiện nay. Trí tuệ nhân tạo và người máy cũng có thể giúp hạn chế nhu cầu lao động chân tay, cho phép người Trung Quốc làm việc ở độ tuổi lớn hơn so với trước đây. Nhưng những điều này cũng chỉ đến được một hạn độ. Dù những nỗ lực này có thể giảm thiểu căng thẳng do thực tế nhân khẩu học gây ra nhiều đến đâu đi chăng nữa, thì chúng cũng không thể khắc phục hoàn toàn thực tế này, khiến Trung Quốc phải đối mặt với tốc độ tăng trưởng chậm hơn, với ít dư địa hơn cho các dự án đầu tư lớn so với xu hướng bấy lâu.
Vân Du biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times