Đài Loan đang đa dạng hóa một cách mạnh mẽ khỏi Trung Quốc
Cũng như phía Hoa Kỳ, châu Âu, và Nhật Bản, Đài Loan đã quyết định đa dạng hóa nguồn cung ứng và đầu tư khỏi Trung Quốc. Chắc hẳn Bắc Kinh đang cảm thấy cô đơn.
Đài Loan dường như đã quyết định đi theo con đường tương tự như các doanh nghiệp Mỹ, Âu Châu, và Nhật Bản.
Vì những lý do tương tự như các quốc gia khác, cộng đồng doanh nghiệp hùng mạnh của hòn đảo này đã có những bước đi nhằm đa dạng hóa hoạt động đầu tư, giao dịch, cũng như tìm nguồn cung ứng ngoài Trung Quốc và định hướng lại sang Đông Nam Á và Nam Á. Một số khoản đầu tư của Đài Loan thậm chí đã chuyển sang Hoa Kỳ. Bắc Kinh không thể nào vui mừng về những xu hướng này. Nền kinh tế Trung Quốc đang suy yếu, và giờ đây, khi họ cần nhất sự trợ giúp mà doanh nghiệp Đài Loan đã cung cấp trong nhiều thập niên, thì sự trợ giúp đó đang dần biến mất.
Trong hành động lần này, Đài Loan ít gây chú ý hơn các nước khác. Không giống như Hoa Kỳ, Liên minh Âu Châu, và Nhật Bản, Đài Loan đã thể hiện thái độ ít nổi bật hơn trong việc từ chối kinh doanh với Trung Quốc vì những cân nhắc ngoại giao. Trái ngược với Đài Bắc, Hoa Thịnh Đốn đã thể hiện rõ thái độ thù địch với Trung Quốc. Họ đã cấm một số loại hình thương mại với Trung Quốc và đầu tư công nghệ vào Trung Quốc. Họ đã tăng thêm gánh nặng thuế quan đối với hàng hóa Trung Quốc nhập cảng vào Hoa Kỳ. EU cũng đã thể hiện rõ ràng lập trường khi mới đây công bố mức thuế đối với xe điện (EV) do Trung Quốc sản xuất. Còn Nhật Bản thì dẫn đầu nỗ lực khiến thế giới ít phụ thuộc hơn vào Trung Quốc về các nguyên tố đất hiếm quan trọng. Đài Loan không chính thức đưa ra bất kỳ thông báo đối địch công khai nào, nhưng hành động của cộng đồng doanh nghiệp nước này, giống như ở Hoa Kỳ, châu Âu, và Nhật Bản, là không thể nhầm lẫn.
Bỏ qua chính trị và các thông báo công khai, lý do giới doanh nghiệp của các nền kinh tế này từ chối Trung Quốc cũng khá giống nhau. Trong nhiều thập niên, các nền kinh tế phát triển trên thế giới ở bất kỳ châu lục nào đều nhìn nhận Trung Quốc là hấp dẫn. Chi phí sản xuất ở đó rẻ và hoạt động tại Trung Quốc đã từng đáng tin cậy. Bắc Kinh đề ra những yêu cầu vượt quá mức bình thường trong quan hệ kinh tế toàn cầu đối với người ngoại quốc, nhưng chi phí thấp và độ tin cậy đã bù đắp cho những áp đặt của Bắc Kinh. Thương mại và đầu tư đã phát triển. Nhưng trong những năm gần đây, cán cân này đã thay đổi đáng kể.
Tiền lương của người Trung Quốc đã tăng nhanh hơn so với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là so với những nơi khác ở châu Á. Xu hướng này đã làm xói mòn lợi thế về chi phí trước đây của Trung Quốc. Mặc dù sự mất giá gần đây của đồng nhân dân tệ đã khôi phục một phần lợi thế đó, nhưng các doanh nghiệp nhận thấy sự dao động giá trị của đồng tiền này và không coi trọng yếu tố đó trong các quyết định dài hạn cần thiết của họ. Đối với danh tiếng trước đây của Trung Quốc về độ tin cậy, việc cắt giảm các lô hàng trong thời kỳ đại dịch và các biện pháp zero COVID kéo dài nhiều năm của Bắc Kinh đã hoàn toàn làm mất đi sự tin cậy. Đồng thời, nỗi ám ảnh gần đây của Bắc Kinh về an ninh đã khiến Trung Quốc chính thức trở nên xâm phạm hơn bao giờ hết. Sự kết hợp của ít điểm thu hút hơn và nhiều áp đặt hơn đã làm nghiêng cán cân quyết định về phía chống lại Trung Quốc giữa các doanh nghiệp trên mọi châu lục.
Những dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp Đài Loan đang tách rời khỏi Trung Quốc quả thực là rõ ràng, thậm chí còn rõ ràng hơn cả ở Hoa Kỳ. Mặc dù Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Đài Loan, nhưng tỷ trọng của Trung Quốc trong thương mại với Đài Loan đã giảm đều đặn kể từ năm 2021. Năm đó, doanh số bán hàng của Trung Quốc tại Đài Loan và lượng mua hàng Trung Quốc của các nhà sản xuất Đài Loan lên tới 208.4 tỷ USD, chiếm khoảng một phần tư tổng [kim ngạch thương mại của Đài Loan]. Đến năm 2023, giai đoạn mới nhất có dữ liệu đầy đủ, thì con số đó đã giảm gần 20% xuống còn khoảng 166 tỷ USD, chỉ nhỉnh hơn một phần năm tổng số.
Ngược lại, tổng kim ngạch thương mại của Đài Loan với Đông Nam Á đã tăng từ 117.5 tỷ USD vào năm 2021 lên 134.6 tỷ USD vào năm 2022, tăng gần 10% trong một năm. Sự phụ thuộc của Đài Loan vào xuất cảng sang Trung Quốc cũng đã giảm. Ngay cả khi tính đến cả Hồng Kông, thì số liệu gần đây cho thấy con số này đang thấp hơn bao giờ hết kể từ năm 2018. Hầu hết sự thay đổi trong số liệu này đã chuyển sang Đông Nam Á.
Nếu xu hướng này là chưa đủ để gây lo ngại cho Bắc Kinh, thì các số liệu cũng cho thấy sự chuyển hướng đáng kể của tiền đầu tư từ Đài Loan. Dòng tiền đầu tư từ doanh nghiệp của hòn đảo này vào Trung Quốc đã giảm kể từ năm 2010. Năm 2023, đầu tư đã giảm gần 40% so với năm trước. Đầu tư năm ngoái ở mức tương đương 4.17 tỷ USD, chỉ bằng chưa đến một phần ba mức năm 2018.
Một phần sự thay đổi trong dòng đầu tư có điểm đến là Đông Nam Á, đáng chú ý là Singapore, Việt Nam, Indonesia, Malaysia, và Thái Lan. Các quốc gia này hiện nhận được khoảng 40% dòng đầu tư ra của Đài Loan, một tỷ lệ vượt quá dòng chảy vào Trung Quốc. Đầu tư vào Việt Nam đã tăng gấp bốn lần, đặc biệt là trong lĩnh vực mà Bắc Kinh rất quan tâm: điện tử công nghệ cao. Các công ty công nghệ Đài Loan Foxconn, Wistron, Pegatron, và Quanta đều đang có kế hoạch mở rộng sự hiện diện của họ tại Việt Nam.
Những thực tế kinh tế này hẳn là gây rắc rối cho Bắc Kinh, nhưng những tác động an ninh từ sự xoay trục này của Đài Loan cũng gây lo ngại không kém. Thương mại và đầu tư của Đài Loan càng phát triển ở Đông Nam Á và Nam Á bao nhiêu, thì cộng đồng các quốc gia châu Á càng có nhiều lợi ích ở Đài Loan, và họ càng có khả năng chống lại bất kỳ nỗ lực nào của Trung Quốc nhằm phá hoại mọi thứ bấy nhiêu. Không ai cho rằng các quốc gia này có sức mạnh quân sự để kiểm soát việc Trung Quốc liên tục đe dọa xâm chiếm Đài Loan. Tuy nhiên, lợi ích của một nhóm quốc gia rộng hơn khiến cho tư thế của Bắc Kinh đối với Đài Loan trở nên khó xử hơn nhiều.
Vân Du biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times