Tự do tín ngưỡng và quyền tự do hành thiện: Câu chuyện về nữ tu Casimira Kaupas
Các cuộc thảo luận về lịch sử của tự do tín ngưỡng tại Mỹ quốc có xu hướng tập trung vào những cuộc đấu tranh của các nhóm thiểu số tôn giáo khác nhau chống lại sự áp bức ngay tại mảnh đất quê hương của họ. Điều này có khuynh hướng khiến cho góc nhìn bao quát bị phiến diện, đặt trọng tâm vào cách mà những nhóm này đạt được các quyền tự do dân sự, dẫu là ngay trong xã hội Mỹ quốc hay là kết quả của việc chạy thoát khỏi thành kiến tôn giáo, sự đàn áp, hay bức hại ở đất nước quê hương của họ.
Nhưng sự nhấn mạnh này là vào phương tiện thay vì mục đích, khuôn khổ để hoàn thành mục tiêu của họ thay vì chính mục tiêu, vốn là khát vọng công khai phụng sự Chúa và những người xung quanh.
Cuộc đời của nữ tu Casimira Kaupas, một người nhập cư Lithuania vào thế kỷ 19 (sau này được biết đến là Mẹ Maria), là một câu chuyện có thể được thành tựu nhờ quyền tự do tín ngưỡng được tìm thấy ở Mỹ quốc. Câu chuyện của vị nữ tu này là một câu chuyện về việc phụng sự dựa trên đức tin mạnh mẽ vào Chúa và về khát vọng xoa dịu nỗi thống khổ của những người khác.
Từ đàn áp tín ngưỡng đến tự do tín ngưỡng
Nữ tu Casimira sinh năm 1880, tại Ramygala, Lithuania. Được nuôi dưỡng theo đức tin Công giáo ở một vùng đất Công giáo lịch sử, nhưng bà cùng gia đình và những người dân ở đó không được phép tự do thực hành tín ngưỡng của mình, bởi vì đất nước Lithuania đã nằm dưới sự cai trị của nước Nga trong gần một thế kỷ.
Trong suốt khoảng thời gian này, các sa hoàng của nước Nga đã cố gắng áp đặt Nga giáo Chính thống lên những con người kiên cường này. Cuộc đàn áp tín ngưỡng đã không đi xa đến mức ép buộc người dân Lithuania cải đạo, tuy nhiên các sa hoàng đã thực hiện nhiều biện pháp khác nhau khi có thể, chẳng hạn như can thiệp vào quyền lãnh đạo của Giáo hội Công giáo ở Lithuania, đàn áp pháp lý đối với những người Công giáo trong các vấn đề dân sự, và thậm chí là các cố gắng nhằm xóa bỏ văn hóa và ngôn ngữ Lithuania.
Vào cuối những năm 1800, một làn sóng những người nhập cư từ Lithuania đã đến Hoa Kỳ để tìm kiếm cơ hội và sự tự do tín ngưỡng. Nhiều người đã định cư tại vùng mỏ than phía nam của tiểu bang Pennsylvania để làm việc tại các mỏ than địa phương.
Anh trai của bà Casimira, ông Anthony, đã trở thành linh mục và di cư sang Mỹ quốc để phụng sự cho cộng đồng người nhập cư Lithuania. Linh mục Kaupas đã được chỉ định đến giáo xứ Thánh Joseph của người Lithuania ở thành phố Scranton, tiểu bang Pennsylvania, và bà Casimira đã đến đó vào năm 1897 khi vừa 17 tuổi để làm quản gia cho anh trai.
Một cuộc đời phụng sự
Sau khi đến thành phố Scranton, bà Casimira đã chú ý đến một số điều. Một trong số đó là cảnh ngộ khốn khổ của nhiều người nhập cư Lithuania, những người làm thợ trong mỏ than đá. Vào thời điểm đó, những người thợ mỏ làm việc tại những nơi vô cùng tối tăm và nguy hiểm. Khi thiệt mạng dưới các hầm mỏ sâu, họ thường để lại những gia đình đã mất đi trụ cột hoặc những đứa trẻ trở thành trẻ mồ côi.
Bà cũng lần đầu tiên quan sát thấy những người phụ nữ đã dâng hiến cuộc đời của họ trong vai trò các nữ tu để phụng sự người khác, và bà nhận ra đây chính là điều bà muốn làm.
Con đường phía trước của bà Casimira trong cuộc sống cuối cùng sẽ kết nối tất cả những quan sát này lại với nhau. Đầu tiên, bà chỉ đơn thuần muốn trở thành một nữ tu chiêm niệm, người sẽ sống, làm việc và cầu nguyện trong một tu viện kín và không bao giờ rời khỏi nơi đó.
Tuy nhiên, nhờ anh trai bà và những linh mục khác chỉ dẫn, bà đã dần dần nhận ra rằng lời kêu gọi sống đời tu trì của bà cũng là lời kêu gọi xoa dịu nỗi thống khổ và giảm đi tình trạng thiếu hiểu biết của những người nhập cư Lithuania, và hơn thế nữa, dạy cho họ về đức tin mà bà vô cùng trân quý trong môi trường văn hóa và ngôn ngữ Lithuania mà bà hằng yêu mến.
Vào năm 1907, bà đã sáng lập dòng tu của mình, Giáo đoàn Dòng Nữ tu Thánh Casimir (được đặt tên theo vị thánh bảo trợ của Lithuania), và bà được mang tên là Mẹ Maria. Sau khi bà thành lập một ngôi trường nhỏ ở thị trấn khai thác mỏ của vùng Núi Carmel, tiểu bang Pennsylvania, tin tức đã lan truyền nhanh chóng, các nữ tu trong dòng tu của bà sớm nhận được nhiều lời đề nghị làm giáo viên tại các trường dòng của người Lithuania trên khắp Hoa Kỳ.
Mẹ Maria tin rằng Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi và rằng bà có bổn phận hành thiện. Bà chia sẻ, “Giữ vững ý niệm tốt đẹp, dù cho bạn ở bất kỳ đâu và làm bất kỳ điều gì, hãy luôn tâm niệm rằng: Chúa đang hiện diện nơi đây!”
Sức mạnh của đức tin
Tại vùng đất quê hương của mình, bà gần như chắc chắn không thể tham gia vào một giáo đoàn tín ngưỡng, huống chi là thành lập một giáo đoàn như vậy. Bà chắc chắn sẽ không được phép làm chứng công khai cho đức tin của mình bằng việc tự mình, với tư cách là một nữ tu Công giáo, tham gia vào các việc thiện nguyện chẳng hạn như giáo dục. Cuối cùng, bà sẽ bị ngăn cấm tôn vinh nền văn hóa hoặc đức tin của những học sinh người Lithuania mà bà dạy dỗ.
Nhìn từ góc độ này, sự nghiệp đáng chú ý của Mẹ Maria có thể có được thành tựu là nhờ vào tự do tín ngưỡng.
Hơn nữa, tự do tín ngưỡng không chỉ trao cho bà cơ hội để làm các việc thiện nguyện mà còn khiến bà trở thành một người cao thượng để theo đuổi những việc thiện nguyện khác. Mỗi lời yêu cầu mà bà nhận được đã mở rộng cơ hội phụng sự. Khi Đức Hồng Y George Mundelein, tổng giám mục của thành phố Chicago, yêu cầu bà trông coi Bệnh viện Holy Cross, Mẹ Maria đã đáp lại bằng cách đào tạo các nữ tu sĩ của bà trở thành những người quản trị và các y tá.
Vào năm 1933, Mẹ Maria được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú. Bà đã sống trong nỗi đau đớn bảy năm, tiếp tục trông nom dòng tu của mình và vui vẻ chấp nhận mọi nghịch cảnh.
Khi bà qua đời vào năm 1940, cuộc khám nghiệm tử thi đã tiết lộ một sự thật đáng kinh ngạc; căn bệnh ung thư đã di căn vào xương của bà, tạo thành một lỗ hổng có kích cỡ bằng một đồng 25 xu xuyên qua hộp sọ của bà. Các bác sĩ đã rất ngạc nhiên khi một người có thể sống với một tình trạng như vậy mà không hề oán thán. Mẹ Maria chưa bao giờ than vãn và thản nhiên đối diện với căn bệnh, giống như cách bà đối đãi với mọi việc khác.
Mẹ Maria được biết đến với sự khiêm cung và khả năng nhẫn chịu của mình. Tuy nhiên, phẩm chất nổi bật của bà với tư cách là một người Mỹ dường như là đức tính cao thượng, vốn có được là nhờ vào quyền tự do tín ngưỡng mà bà tìm thấy ở đất nước đã đón nhận bà. Ở Lithuania, dưới thời các sa hoàng Nga hoặc dưới thời những người cộng sản Nga, điều vĩ đại như vậy sẽ bị cản trở gần như là mọi lúc.