Thiên cổ anh hùng Tưởng Giới Thạch (P.13 ): Cấu kết bên trong và bên ngoài
Xem lại:Kỳ 1,Kỳ 2,Kỳ 3,Kỳ 4,Kỳ 5,Kỳ 6,Kỳ 7,Kỳ 8,Kỳ 9,Kỳ 1o,Kỳ 11,Kỳ 12
Chương 3: Ứng binh biến chết cũng không quay đầu
Cấu kết bên trong, liên kết bên ngoài
Kể từ thời Minh Trị, Nhật Bản từ lâu đã hình thành cái gọi là chính sách Đại lục bắc Tiến và Hàng hải Nam Tiến. Quân đội coi Liên Xô là kẻ thù số một, và chủ trương Bắc Tiến rằng “trước tiên đổ mọi lực lượng vào để đánh bại Liên Xô”. Lực lượng hải quân sẽ di chuyển về phía nam, và đối phó với Liên Xô sau khi vương quốc Anh và Hoa Kỳ bị trục xuất khỏi Đông Á. Một tháng trước Biến cố Tây An, vào ngày 25 tháng 11 năm 1936, Nhật Bản và Đức đã ký “Hiệp định Quốc tế chống Cộng sản” tại Berlin, nhằm vào Liên Xô.
Trước khi xảy ra biến cố Tây An, Trương Học Lương bị ảnh hưởng bởi Trung Cộng và những người thân với Trung Cộng nên đã nộp đơn xin gia nhập ĐCSTQ. Trong quá trình giao tiếp với Trương Học Lương, Trung Cộng đã che giấu về chỉ thị “Liên Minh Tưởng kháng Nhật” của Cộng sản Quốc tế”; bên cạnh đó Trung Cộng còn giấu diếm không cho Cộng sản Quốc tế biết về chủ trương binh biến của Trương Học Lương. Trương Học Lương hoàn toàn chìm trong bóng tối, cứ nghĩ có sự ủng hộ của Trung Cộng và quân đội trong nước, cứ thế phát động binh biến, với con bài mặc cả là Tưởng Giới Thạch, kẻ đe dọa lớn nhất đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc,ông ta có thể đổi một lượng lớn viện trợ Nga Xô để thống trị vùng tây bắc.
Vào ngày 12 tháng 12 năm 1936, Trương Học Lượng, phó tổng tư lệnh của thổ phỉ Tây Bắc, và Dương Hổ Thành, tổng tư lệnh của đội quân đường thứ mười bảy của quân cách mạng quốc gia, phát động một cuộc binh biến phản loạn ở Tây An, bắt giữ Tưởng Giới Thạch, chủ tịch Ủy ban quân đội chính phủ kiêm tổng chỉ huy quân thổ phỉ Tây Bắc.
Sau sự kiện Tây An, Tưởng Công nói: “Vụ việc này là một bước lùi lớn trong quá trình cách mạng quốc gia của chúng ta: tám năm nỗ lực trấn áp bọn cướp dự kiến sẽ hoàn thành trong hai tuần (tối đa là một tháng), nhưng kết quả đã thay đổi hoàn toàn kèm theo những tàn phá kinh hoàng. Công trình giao thông quốc phòng và xây dựng kinh tế Tây Bắc đã vắt kiệt công sức của đất nước và xã hội mấy năm nay, Việc vận hành và lắp đặt còn thô sơ và quy mô lớn, sau sự hỗn loạn này, thiệt hại khó có thể tính toán được. Nếu chúng ta muốn lập lại trật tự địa phương và tín dụng kinh tế theo quan niệm cũ, đó chắc chắn không phải là điều cần làm một cách quyết liệt. Tóm lại, quá trình dựng nước sẽ phải lùi lại ít nhất ba năm, đó là nỗi đau của quốc gia!
Những người tạo nên sự hỗn loạn cũng đều tồn tại lương tri, và họ cũng sẽ hối hận về sự kiêu ngạo và bất cần của mình.” (“Nhật ký Tây An”, 1937) Tưởng Giới Thạch luôn tin rằng những người theo ĐCSTQ dù gì cũng là người Trung Quốc, cuối cùng họ sẽ yêu Trung Quốc, có thể cùng nhau làm cách mạng cứu nước. Vì vậy, Tưởng Giới Thạch có ý tốt, giữ lời hứa, tổ chức lại quân đội ĐCSTQ và ngừng đàn áp ĐCSTQ.
Sau sự kiện Tây An, giới chính trị và quân sự Nhật Bản đã chứng kiến sự thống nhất trong nội bộ Trung Quốc, và Chính phủ Quốc gia cũng đã chuẩn bị sẵn sàng để kết hợp với Đảng Cộng sản và chống lại Nhật Bản. Cảm thấy có một mối đe dọa lớn hình thành, vì vậy thay vì chờ đợi chính quyền trung ương chuẩn bị cho chiến tranh, họ đã phát động Sự kiện Lư Câu Kiều và bắt đầu thôn tính miền Bắc Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Liên Xô đã làm hết sức mình để thúc đẩy giải quyết hòa bình sự kiện Tây An, Stalin biết rằng chỉ có Tưởng Giới Thạch mới có khả năng lãnh đạo toàn bộ cuộc chiến tranh chống Nhật của Trung Quốc, Vì lợi ích sống còn của Liên Xô, để giảm bớt mối đe dọa của Nhật Bản đối với Liên Xô, ĐCSLX đã nghiêm cấm ĐCSTQ giết Tưởng Giới Thạch vì điều này giúp quân đội Nhật Bản có thể tấn công Trung Quốc trong thời gian ngắn, tránh được việc quân đội Nhật Bản tiến lên phía bắc và hình thành tình thế câu kết với Đức Quốc xã để tấn công Liên Xô.
ĐCSTQ bị quân đội Quốc gia bao vây ở phía bắc Thiểm Tây, đã sống sót sau sự kiện Tây An, trong tám năm sau đó, nó đã có thể phát triển và lớn mạnh theo chiến lược của Mao Trạch Đông “một phần kháng Nhật, hai phần ứng phó, bảy phần phát triển”.
Nếu không có Biến cố Tây An, cuộc kháng chiến toàn diện của Trung Quốc chống Nhật Bản có thể bị hoãn lại. Nhật Bản có thể tấn công Liên Xô trước tiên ở phía bắc, và sẽ không mở cuộc tấn công về phía nam vào Trân Châu Cảng, và lịch sử thế giới về Thế chiến thứ hai và hơn thế nữa sẽ được viết lại.
Trương Học Lượng là người kế vị Trương Tác Lâm chỉ huy quân Phạt Phong tộc. Trương Học Lượng thời còn trẻ, mười chín tuổi theo học tại Giảng đường Đông Bắc, một năm sau tốt nghiệp, ông giữ chức Lữ đoàn trưởng và được phong quân hàm đại tá. Trong cuộc viễn chinh phương Bắc, Phong tộc thất bại, Trương Tác Lâm bị ném bom chết ở Hoàng Cố Đốn trên đường trở về Thẩm Dương. Sau khi Trương Học Lượng lên nắm quyền, ông đã ban hành “không bao giờ cản trở thống nhất Điện tín”, tuyên bố trung thành với Chính phủ quốc gia, Đông Bắc thay đổi quốc kỳ và Trung Quốc nhận ra sự thống nhất chính thức của đất nước.
Trương Học Lượng đã từng tạo nên cuộc chiến tranh giữa đường sắt Trung Đông và Liên Xô. Trương Học Lượng ủng hộ chính quyền trung ương sau khi đổi cờ ở Đông Bắc, tham gia đại chiến Trung Nguyên, kiểm soát 4 tỉnh Đông Bắc và Hoa Bắc, và trở thành nhân vật quan trọng của Trung Hoa Dân Quốc. Sau khi quân chủ lực của Trương Học Lượng tiến vào, quân đội ở ba tỉnh phía đông không đủ, Quân đội Nhật Bản đã nhân cơ hội phát động “Sự cố ngày 18 tháng 9”.
Trước biến cố Tây An, Trương Học Lượng đã nắm trong tay hàng trăm ngàn quân Đông Bắc được huấn luyện tinh nhuệ. Ngày 2 tháng 1 năm 1932, Quân đội Đông Bắc rút lên đèo. Từ khi Nhật Bản khởi xướng “Sự kiện ngày 18 tháng 9” đến khi Trương Học Lượng nhượng bộ toàn bộ lãnh thổ của ba tỉnh đông bắc, Trương Học Lượng chưa bao giờ phát lệnh tác chiến.
Vào đêm “Sự cố ngày 18 tháng 9”, Trương Học Lượng đã đưa ra hai mệnh lệnh không được kháng cự. Khi quân đội Nhật tấn công Trại Bắc Đại, Tham mưu trưởng quân Đông Bắc Vinh Trân đã xin chỉ thị từ Trương Học Lượng. Trương trả lời qua điện thoại rằng “Tôn trọng tôn chỉ hòa bình của Liên Hợp Quốc và tránh xung đột”.
Trương Học Lượng đã trả lời phỏng vấn công khai với đài truyền hình NHK của Nhật Bản vào năm 1990 và nói trong một cuốn hồi ký vào những năm cuối đời của mình, “Chính quân đội Đông Bắc của chúng tôi đã chọn không kháng cự. Lúc đó tôi nhận định rằng người Nhật sẽ không chiếm toàn bộ Trung Quốc, tôi đã không nhìn rõ ý đồ xâm lược của họ nên cố gắng hết sức để tránh kích động người Nhật và không cho họ có cớ để mở rộng chiến tranh. “Tôi đã sai lầm trong nhận định của mình về Sự cố ngày 18 tháng 9”.
Ngày 8 tháng 12 năm 1931, Tưởng Giới Thạch gọi điện cho Trương Học Lượng báo rằng “Quân Cẩm Châu không được rút lui vào lúc này”. Ngày hôm sau, Tưởng cử một đội quân hàng không khác đến trợ giúp. Vào ngày 29 tháng 12, Hội nghị chính trị trung ương của Quốc dân đảng (khi Tưởng Giới Thạch xuống và Tôn Kế đang nắm quyền) ra quyết định: “Trong trường hợp bị xâm phạm, hãy phản kháng”. Chính phủ Quốc dân đảng đã điện báo tinh thần cuộc họp cho Trương Học Lượng, Trương Học Lượng trả lời: “Mạnh yếu chênh lệch quá rõ, bất luận như thế nào cũng cần nâng cao tinh thần, và cần thêm sự may mắn đi kèm”.
Ngày 6 tháng 8 năm 1932, Uông Tinh Vệ liên tiếp đưa ra 5 bức điện thư, tố cáo Trương Học Lượng “năm ngoái bỏ Thẩm Dương, lại mất Cẩm Châu, khiến 30 triệu dân và hàng trăm vạn đất đai bị mất vào tay giặc, tạo thuận lợi cho giặc mở rộng lãnh thổ đến Tùng Hộ. đến hôm nay “tôi cũng chưa nghe về sách lược một binh- một mục tiêu, vì vậy mà mượn danh phản kháng, để tập trung tích trữ lực lượng”. Vào ngày 8 tháng 8, Uông tinh Vệ đã tổ chức một cuộc họp báo và chỉ ra rằng: “Hôm nay Nhiệt Hà đang ở trong tình thế tuyệt vọng, Bình Tân đang gặp nguy hiểm, Trương Hán Khanh không điều binh hỗ trợ, ngày quốc gia đang lâm vào tình trạng nguy hiểm sắp cận kề. Vì vậy, con đường cứu nước duy nhất chỉ có thể là quân phạt, thống nhất nội chính”.
Vào thời điểm đó, tình trạng nghiện ngập của Trương Học Lương đã nghiêm trọng, trước trận Nhiệt Hà, Tống Tử Văn cùng Trương Học Lương ngồi chuyến xe đi kiểm tra chiến tuyến trên, đã phát hiện Trương Học Lượng cứ đi được 40km là phải dừng lại tiêm morphine một lần.
Từ năm 1933 đến năm 1934, Trương Học Lượng đi du lịch châu Âu để cai nghiện. Sau khi Trương trở về Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch đã bổ nhiệm ông làm Phó tổng tư lệnh trấn áp thổ phỉ ở ba tỉnh Hồ Bắc, Hà Nam và An Huy. Trương đã dẫn một trăm nghìn quân Đông Bắc chống lại ba vạn Hồng quân, và quân Đông Bắc đã bị đánh bại.
Năm 1935, Tưởng Giới Thạch bổ nhiệm Trương Học Lượng làm phó tổng tư lệnh thổ phỉ Tây Bắc, cùng 200.000 quân Đông Bắc tiến vào Thiểm Tây và Cam Túc. Thiểm Tây do lãnh chúa Dương Hổ Thành kiểm soát, anh ta từ thủ lĩnh đám thổ phỉ hơn chục người và trở thành thủ lĩnh quân sự và chính trị của tỉnh Thiểm Tây.
“Quốc gia” trong Nước
Trung Cộng lợi dụng những cuộc Bắc Phạt đã kích động quân phạt địa phương và quân đội chính phủ trung ương. Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập năm 1921, sau sự hợp tác đầu tiên giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản, sau khi Tưởng Giới Thạch xóa bỏ đảng phái, ông bắt đầu dấy binh ở Nam Xương vào năm 1927, ông tự thành lập một quốc gia trong nước và công khai chống lại Chính phủ Quốc dân. Từ hơn 10.000 người đến 300.000 quân chính quy và hàng trăm nghìn dân quân địa phương, đồng thời kiểm soát sáu khu vực lớn của Liên Xô trải dài trên một số tỉnh ở Trung Quốc, chẳng hạn như Chiết Giang-Giang Tây, quận Xô viết Hồ Nam-Giang Tây, khu Xô viết Tây Hồ Nam-Hồ Bắc, Hồ Bắc-Hà Nam -Khu Xô Viết An Huy, và Khu Xô Viết Bắc Thiểm Tây. Lãnh thổ của nó đã mở rộng đến sáu mươi quận, với dân số 4,3 triệu người và diện tích lãnh thổ hơn 80.000 km vuông.
Từ cuối năm 1930 đến đầu năm 1931, ĐCSTQ đã giành chiến thắng trong cuộc chiến chống bao vây đầu tiên.Sau cuộc chiến này, chính phủ Quốc dân đảng nhận ra rằng ĐCSTQ đang hết sức bành trướng, và quân đội quốc gia không thể loại bỏ nó chỉ với lực lượng của một tỉnh. Hơn một tháng sau Biến cố ngày 18 tháng 9 năm 1931, Đảng Cộng sản Trung Quốc lợi dụng sự xâm lược của kẻ thù nước ngoài, sự ly khai của quân phạt và sự yếu kém của chính quyền trung ương. Dưới sự hỗ trợ tài chính và sự kiểm soát trực tiếp của Cộng sản Quốc tế, ngày 7 tháng 11, Quốc khánh Liên Xô, “nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa” được thành lập tại Thuỵ Kim, Giang Tây. Cộng hòa Xô Viết Trung Hoa được thành lập trên lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc và đặt tại vị trí rất gần với Nam Kinh, thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc. Dùng lời của Tưởng Giới Thạch mà nói, nếu không cẩn thận thì Nam Kinh cũng sẽ bị đánh chiếm.
ĐCSTQ đã tuyên bố trong “Thông báo của Ban Chấp hành Trung ương Cộng hòa Xô Viết Trung Hoa” rằng từ nay về sau, ở Trung Quốc sẽ có hai quốc gia khác nhau. Một là Trung Hoa Dân Quốc, một công cụ của chủ nghĩa đế quốc. Nước còn lại là Cộng hòa Xô Viết Trung Hoa, một đất nước bóc lột và áp bức giai cấp công nhân, nông dân và binh lính. Ngọn cờ của nó chính là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, xóa bỏ giai cấp địa chủ, lật đổ chính quyền quân phạt Quốc dân đảng, thành lập chính quyền Xô Viết trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.
Tổ nghiên cứu nhân vật anh hùng thiên cổ của văn hóa thần truyền huy hoàng 5000 năm
Linda Huang biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc tại EpochTimes Hoa ngữ