Thiên cổ anh hùng Tưởng Giới Thạch (P.6): Binh chinh thiên hạ
Kỳ 1: Chống lại Satan, khôi phục Hoa HạKỳ 2: Tiếp bước Quốc phụ thống nhất Trung NguyênKỳ 3: Vì đại nghĩa diệt phản loạnKỳ 4: Tiếp bước theo con đường Quốc phụKỳ 5: Linh hồn của trường quân sự Hoàng Phố
Kỳ 6: Binh chinh thiên hạ
*****
Phá vỡ các nhóm thế lực quân phiệt
Sau năm 1911, Tôn Trung Sơn phải đối mặt với hai vấn đề là tiêu diệt tàn dư của các thế lực quân phiệt và hoàn thành việc “thành lập Trung Hoa Dân Quốc, thực hiện quyền bình đẳng đất đai”. Từ năm 1917 đến năm 1924, Tôn Trung Sơn đã tiến hành ba cuộc thảo phạt phương Bắc nhưng không đạt được kết quả. Ông bèn yêu cầu Tưởng Giới Thạch thành lập học viện quân sự và kế thừa sứ mệnh còn dang dở của mình.
Ngày 12/3/1925, Tôn Trung Sơn qua đời tại Bắc Kinh. Sau này, Uông Tinh Vệ kể lại với Tưởng Giới Thạch rằng: “Trước lúc lâm chung, Tôn tiên sinh đã gọi mấy lần Giới Thạch, Giới Thạch”…
Tưởng Giới Thạch từng nói: “Lãnh tụ của chúng ta là Quốc phụ của Trung Hoa Dân Quốc”. Quốc phụ qua đời đúng vào lúc Tưởng Giới Thạch đang ở tiền tuyến trong chiến dịch Đông chinh thảo phạt Trần Quýnh Minh. Nhận được tin buồn, ông liền viết bài điếu “Thương tiếc sự ra đi của đại nguyên soái” rồi tức tốc trở về Quảng Châu để tổ chức lễ truy điệu. Điếu văn có đoạn:
“Hai mươi năm đi theo, ngày đêm nương tựa, một sớm ngài từ bỏ ra đi, đời còn gì vui nữa đâu? Nhớ từ khi đi theo phụng sự ngài đến nay, hoạn nạn thì nhiều mà vui vầy thì ít. Giữa những lần vào sinh ra tử, ngài cất lời bi ca khảng khái, than thở thê lương, bên nhau cả ngày, tình cảnh tâm truyền tâm này, ai có thể thành tri âm? Trong chiến dịch Hoàng Phố, thầy của tôi ví mình là Văn Thiên Tường của Trung Hoa Dân Quốc, coi Trung Chính là Lục Tú Phu. Năm ngoái, ông rời đi phương Bắc, để học viện quân sự được thành lập, có người nối nghiệp, thực hành được chủ nghĩa Tam Dân, nói với Trung Chính là ông dù có chết cũng không hối tiếc”.
Vào thời điểm đó, ba thành viên lớn tuổi nhất trong Quốc Dân đảng là Uông Tinh Vệ, Hồ Hán Dân và Liêu Trọng Khải. Thế nhưng Bào La Đình lại nghiễm nhiên tự cho mình như là Thái thượng hoàng, hô mưa gọi gió. Tưởng Giới Thạch nắm giữ quân đội và có kiến thức sâu rộng về chính trị, ông giữ vai trò quan trọng nhưng không tranh giành quyền lực với người khác, duy trì quan hệ tốt với Bào, Vương, Hồ và Liêu. Vào tháng 7, Uông Tinh Vệ được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Quốc gia và Quân ủy, còn Tưởng trở thành thành viên Ủy ban Thường vụ Quân ủy. Vào tháng 8, Liêu Trọng Khải bị ám sát. Bào La Đình đã gài bẫy Hồ Hán Dân và yêu cầu Hứa Sùng Trí xử bắn Hồ và đồng đảng, đe dọa “xử tử những người này trước, xác chết của họ sẽ là bằng chứng” — (“Tưởng Trung Chính cha của tôi” – Tưởng Vĩ Quốc). Hồ trốn trong Học viện Quân sự Hoàng Phố và được Hiệu trưởng Tưởng bảo vệ trước khi bị buộc phải ra nước ngoài. Lúc này, Tưởng Giới Thạch chỉ còn cách đỉnh cao quyền lực một bước chân.
Năm 1925, chính phủ thành lập Quân đội Cách mạng Quốc Dân, bao gồm các sĩ quan và binh lính Hoàng Phố tổ hợp thành 5 đội quân, Tưởng Giới Thạch là chỉ huy của đội quân đầu tiên. Một năm sau, do thu nhận lực lượng của Hồ Nam, Vân Nam, Quảng Đông và Quảng Tây, quân đội Quốc Dân đã mở rộng thành tám đạo quân, Tưởng Giới Thạch được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh.
Ngày 4/1/1926, Tưởng Giới Thạch lần đầu tiên có bài phát biểu trước công chúng tại yến tiệc của Chính phủ Quốc Dân ở Quảng Đông, chủ trương cuộc Bắc chinh. Ông nói: “Nếu đảng làm việc nỗ lực hơn trong năm nay thì có thể lật đổ các quân phiệt, giành lại Bắc Kinh và đón linh cữu của Thủ tướng đến núi Tử Kim Sơn Nam Kinh để an táng”.
Khi thời cơ đến thì trời đất sẽ cùng hợp sức, Tưởng Giới Thạch giương cao ngọn cờ viễn chinh phương Bắc và bắt đầu thống lĩnh quyền lực của chính quyền, chính phủ và quân đội. Ngày 16/4, Tưởng Giới Thạch thay Uông Tinh Vệ làm Chủ tịch Quân ủy quân Quốc Dân. Vào tháng 5, phiên họp toàn thể lần thứ hai của Đại hội Đại biểu Toàn quốc Quốc Dân đảng đã thông qua “Tổ chức lại các vấn đề của Đảng” do Tưởng Giới Thạch và những người khác đề xuất nhằm hạn chế hoạt động của ĐCSTQ trong Quốc Dân đảng. Ngày 6/7, Tưởng được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Trung ương Quốc Dân đảng. Ngày 9/7, ông được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh Quân đội Cách mạng Quốc Dân. Vì vậy, lực lượng của cách mạng phải được tập trung theo nguyên tắc Tam Dân, và phải đánh đổ các sứ quân và đế quốc mà các sứ quân dựa vào để tồn tại — (“Tổng tư lệnh Quân đội Cách mạng Quốc gia”, 1926).
Sau cái chết của Viên Thế Khải vào năm 1916, quân đội giống như một đám quần long mất đầu, chia thành ba phe chính là Trực, Phụng và Hoàn, tranh giành tên gọi của chính phủ Bắc Dương. Trong mười năm, Đoàn Kỳ Thụy, Phùng Quốc Chương, Tào Côn, Trương Tác Lâm và những người khác đã lần lượt thay nhau vào Bắc Kinh.
Trước cuộc Bắc phạt, phái đoàn do Đoàn Kỳ Thụy đứng đầu đã trở thành lịch sử, các thế lực phương bắc được chia thành ba: Ngô Bội Phu kiểm soát miền Trung, bao gồm vùng lưỡng Hồ; Tôn Truyền Phương chiếm miền Đông, gồm Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải và Giang Tây; Trương Tác Lâm cố thủ vùng Đông Bắc, miền Bắc Trung Quốc và kiểm soát chính quyền Bắc Dương. Ba thủ lĩnh của các đội quân đã có kinh nghiệm cũng từng kinh qua chiến trường với tổng lực 70 vạn binh được trang bị tốt, nhưng họ chỉ là quân tư gia và không có chí lớn, chủ yếu chỉ vì mưu sinh. Quân Bắc phạt chỉ có 10 vạn người, nhưng họ là những chiến binh chính nghĩa, có tín ngưỡng, có chủ nghĩa Tam Dân chỉ đường dẫn lối do Quốc phụ thành lập, được Tưởng Công làm thống soái. Không cần so sánh phe nào mạnh hơn hay phe nào yếu hơn, mà nhìn vào câu đối trên cổng Học viện Quân sự Hoàng Phố là sẽ thấy tinh thần của quân Bắc phạt: “Thăng quan phát tài thỉnh vãng tha xứ, Tham sinh úy tử vật nhập tư môn” (Muốn thăng quan phát tài xin mời đi nơi khác, Nếu tham sống sợ chết thì đừng bước vào trường).
Theo sách lược “đánh từng nơi một”, Tổng tư lệnh Tưởng quyết định: “Đả đảo Ngô Bội Phu, liên lạc Tôn Truyền Phương và không quan tâm Trương Tác Lâm”.
Ngày 9/7/1926, Tưởng Giới Thạch nhậm chức Tổng tư lệnh Quân đội Cách mạng Quốc Dân và chụp ảnh tại khu Đông Quảng Châu trong buổi tuyên thệ nhậm chức (Ảnh công khai).
Ngày 9/7/1926, Quân đội Cách mạng Quốc Dân tuyên thệ đưa quân vào Quảng Châu, vào ngày 11/7 tiến đánh vùng Trường Sa. Cuộc Bắc phạt và chiến dịch Hồ Nam đã giành được thắng lợi đầu tiên. 3 giờ sáng ngày 12/7, khoảng 5 vạn người dân Trường Sa ra đường chào đón Tổng tư lệnh Tưởng và quân Bắc phạt tiến vào địa phương.
Chiến dịch Vũ Xương là một trận chiến quan trọng. Sau chiến thắng sơ bộ của quân Bắc phạt, Ngô Bội Phu đã dựa vào Hạ Thắng Kiều để làm thành thế trận “bối thủy nhất chiến”. Ông đã đích thân bắn tử vong 9 viên chỉ huy lữ đoàn, trung đoàn và tiểu đoàn khi đang lâm trận mà bỏ chạy, sau đó cử đại đội đi đôn đốc chiến trận và phản công quân Bắc phạt. Hai bên thế trận giằng co rất kịch liệt, tình hình chiến trận khốc liệt vô cùng. Khi cuộc giao tranh ở cầu Đinh Tứ đang diễn ra ác liệt, Tưởng Giới Thạch đã đến Bồ Kỳ vào ngày 28 và đích thân lên tiền tuyến. Khi đó, một vị tướng đã thỉnh cầu tạm đình chiến với lý do hy sinh quá nhiều, nhưng Tưởng Giới Thạch kiên quyết nói: “Yếu tố quyết định thành bại của cuộc Bắc phạt chính là tại trận chiến này, nếu nản chí thì sẽ không bao giờ có cơ hội chiến thắng nữa. Quân đội của Ngô Bội Phu vốn đã tuyệt vọng rồi, chỉ cần kiên trì đến phút cuối cùng thì chúng ta nhất định sẽ giành chiến thắng”. Cuối cùng đội quân đã thu phục được Vũ Xương vào ngày 10/10 – kỷ niệm tròn 15 năm Cách mạng Tân Hợi. Về sau, Ngô Bội Phu ca ngợi Tưởng Giới Thạch rằng: “Cái tài dụng binh và kiên trì vững chắc trong chiến trận của Tưởng Giới Thạch khiến ta đây thật hổ thẹn và không phải là đối thủ của ông ấy” — (Chuyên đề Ký ức về Tưởng Công, NXB Thanh Sơn, Đài Loan).
Quân Bắc phạt tiến quân không dừng, được Tưởng Giới Thạch đích thân chỉ huy, đoàn quân tiến vào Nam Xương vào ngày 9/11. Còn quân đoàn số 1 ở Đông Nam do Hà Ứng Khâm chỉ huy tiến vào chiếm thành Phúc Châu vào ngày 18/12.
Vào đầu năm 1927, ba đạo quân tiền phương của Bắc phạt là Đường Quân Đông, Đường Trung Ương và Đường Tây tiến dọc theo hai bờ sông Trường Giang và tiến về Nam Kinh, tấn công Tùng Giang, Tô Châu và Thượng Hải vào ngày 21/3 và đánh chiếm lấy Nam Kinh vào ngày 23/3. Lúc này, nửa giang sơn Hoa Nam đã bình định, lực lượng của Ngô Bội Phu cơ bản bị tiêu diệt, tàn dư chạy về Tứ Xuyên. Tôn Truyền Phương cũng bị ảnh hưởng nặng nề và phải lánh nạn ở phe Trương Tác Lâm.
Bắc phạt thành công
Sau khi Tưởng Giới Thạch bắt đầu thanh trừ nội bộ đảng ở Thượng Hải vào ngày 12/4/1927, Bào La Đình đã thao túng chính phủ Vũ Hán do Uông Tinh Vệ đứng đầu để chống lại Tưởng. Vào ngày 17/4, Ủy ban Trung ương Quốc Dân đảng Vũ Hán tuyên bố bãi bỏ chức vụ tổng tư lệnh của Tưởng Giới Thạch, khai trừ đảng và truy nã ông. Cùng ngày, Tưởng Giới Thạch và Hồ Hán Dân tuyên bố sẽ thành lập Chính phủ Quốc Dân tại Nam Kinh và truy nã Bào La Đình cùng các lãnh tụ chủ chốt của ĐCSTQ, từ đó hình thành nên hai chính phủ quốc dân “Ninh – Hán đối lập”, khiến cuộc Bắc phạt chịu ảnh hưởng nặng nề. Tháng 8/1927, vì hình thế đại cục Tưởng Giới Thạch phải từ chức và đi thực địa để xúc tiến “Ninh – Hán tái hợp”, còn Uông Tinh Vệ thì dời đô về Nam Kinh.
Khi đó Lý Tông Nhân của quân Quế Hệ tạm thời nắm giữ quân đội nhưng lại có mâu thuẫn với Uông Tinh Vệ. Quân đội Quốc Dân mất đi chủ soái, cuộc Bắc phạt buộc phải dừng lại, tướng bại trận là Tôn Truyền Phương được thời trở lại, ông ta ngay lập tức đổi hướng từ cuộc Bắc phạt thành “Nam phạt” và gần như chiếm được Nam Kinh, cục diện thật nghiệt ngã!
Vào lúc này, các đồng minh và cả các đối thủ chính trị đều nhận ra rằng sứ mệnh của Tưởng Giới Thạch là lãnh đạo cuộc Bắc phạt và thống nhất Trung Quốc. Nếu không phải là Tưởng thì còn ai nữa đây? Dưới sự đốc thúc của tất cả các bên, Tưởng Giới Thạch được phục chức vào ngày 5/1/1928, làm Chủ tịch Quân ủy kiêm Tổng tư lệnh Quân đội Cách mạng Quốc Dân, chỉnh đốn lại đội ngũ và cờ xí, soái lĩnh toàn quân vượt sông, tiếp tục cuộc Bắc phạt và tập trung tấn công Trương Tác Lâm.
Vào tháng 4, Tổng tư lệnh Tưởng bắt đầu cuộc Bắc phạt lần thứ hai và nhanh chóng tiêu diệt các bộ phái của Trương Tông Xương và Tôn Truyền Phương, trên đường lên phía bắc đã tránh được các chướng ngại của Nhật Bản và tiến thẳng đến Bắc Kinh. Thấy tình thế đã xong, Trương Tác Lâm liền rút khỏi Bắc Kinh vào ngày 4/6 và bị quân Quan Đông đánh bom ám sát tại nhà ga Hoàng Cô Đồn ở Thẩm Dương. Ngày 8/6, quân Bắc phạt tiến vào Bắc Kinh một cách hòa bình, cuộc Bắc phạt thành công rực rỡ. Cuối tháng 12, Tưởng Giới Thạch thuyết phục Trương Học Lương đầu hàng đổi cờ ở vùng đông bắc và quy thuận Trung Hoa Dân Quốc. 17 năm sau Cách mạng Tân Hợi, Trung Quốc đại lục cuối cùng cũng thống nhất, lá cờ mặt trời màu trắng tung bay trên bầu trời xanh của bốn tỉnh miền Đông. Sau đó các nước như Anh, Hoa Kỳ, Đức, Ý, Nhật Bản, Pháp, Tây Ban Nha và các cường quốc khác trên thế giới đã công nhận chính phủ quốc gia là chính phủ hợp pháp của Trung Quốc.
Vào ngày 6/7/1928, Tưởng Giới Thạch và các tướng lĩnh khác đã bày tỏ lòng kính trọng đối với Quốc phụ tại chùa Bích Vân ở Hương Sơn. Ông nhấn mạnh cần phải “dùng tinh thần của lãnh tụ, đoàn kết tinh thần đảng, thống nhất tư duy của quốc gia với tư duy của lãnh tụ” và “làm cho tư tưởng của người dân cả nước dựa vào chủ nghĩa Tam Dân, việc thiết lập và thi hành chính trị của cả nước đều do đảng chỉ đạo, và thực hiện chủ trương lấy đảng trị quốc của lãnh tụ”. “Chính phủ Quốc Dân được dời đến Nam Kinh và Nam Kinh trở thành thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc. Ngày nay, thủ đô cũ của Bắc Bình đã được đổi tên. Nó được thành lập từ thời xưa. Nó đã được tiếp quản và thành lập kinh đô mới. Không còn nghi ngờ gì nữa”. “Việc thành lập Nam Kinh làm thủ đô là phù hợp với nguyện vọng của Quốc phụ và là biện pháp quan trọng để thực hiện chủ nghĩa Tam Dân. Từ góc độ chiến lược, trước sự thèm muốn của Nhật Bản và Nga đối với lãnh thổ phía bắc của Trung Quốc, thủ đô có thể di chuyển về phía nam và cũng có thể có những cân nhắc về an ninh quốc gia”.
Ngày 10/10/1928, Tưởng Giới Thạch đảm nhận chức chủ tịch Chính phủ Quốc Dân. Ông phát biểu trong thư gửi đồng bào: “Cuộc Bắc phạt đã kết thúc, cách mạng đặc biệt thành công… Quốc gia đạt được độc lập tự do, con đường duy nhất để thống nhất tư tưởng cách mạng cả nước là xóa bỏ tà thuyết đấu tranh giai cấp; lấy tinh thần yêu nước đoàn kết nhân dân để chấm dứt các cuộc chiến tranh vũ trang trong nước” — (Thư kỷ niệm lần thứ mười bảy Quốc khánh Trung Hoa Dân quốc gửi đồng bào cả nước, 1928).
Sau cuộc Bắc phạt và trước cuộc kháng chiến chống Nhật, bất chấp trải qua đại chiến tại Trung Nguyên, Đông Bắc gặp nạn, chiến dịch Tùng Hỗ và trừ khử cộng sản ở Giang Tây, rốt cuộc Trung Quốc đã bắt đầu phục hồi nguyên khí, những thành tựu đạt được đã thu hút sự chú ý của toàn thế giới. Năm 1951, ông Wedemeyer, cựu Tham mưu trưởng quân Đồng minh tại chiến khu ở Trung Quốc đã có bài phát biểu trước Quốc hội Hoa Kỳ: “Từ năm 1927 đến năm 1937 được công nhận là khoảng thời gian mười năm hoàng kim, bởi nhiều công dân Anh, Mỹ và kiều dân nước ngoài đã ở Trung Quốc trong một thời gian dài”, “Giao thông tiến bộ, kinh tế ổn định, trường học được thành lập nhiều không kể xiết, giáo dục được đẩy mạnh, và trong các lĩnh vực khác cũng có những thể chế tiến bộ”.
Cách đây một nghìn ba trăm năm, Bộ Hư đại sư thời nhà Tùy đã viết trong bài thơ tiên tri của mình rằng: “Can qua khởi, trục lộc mang, thảo mãng anh hùng tướng xuất sơn, đa thiểu chẩm qua hào kiệt sỹ, phong vân tụ hội đáo giang nam, kim lăng nhật nguyệt hựu trùng quang” (chiến tranh nổ ra, các anh hùng hảo hán lần lượt xuất sơn, có bao nhiêu anh hùng, chí sỹ, hào kiệt, quần hùng tập kết đến Giang Nam, ở Kim Lăng nhật nguyệt lại sáng ngời). Lời tiên tri này rõ ràng là chỉ về sứ mệnh lịch sử khởi binh Bắc phạt, kiến lập kinh đô Nam Kinh của Tưởng Công.
Tổ nghiên cứu Nhân vật thiên cổ anh hùng của Văn hóa Thần truyền 5000 năm
Mạnh Hải biên dịch