Những điều chưa biết về Chu Du: Oai hùng độ lượng, tài hoa hơn muôn người
“Đại giang đông khứ,
Lãng đào tận thiên cổ phong lưu nhân vật.
Cổ lũy tây biên,
Nhân đạo thị Tam Quốc Chu Du Xích Bích.
Loạn thạch băng vân,
Nộ đào liệt ngạn,
Quyển khởi thiên đồi tuyết.
Giang sơn như họa,
Nhất thời đa thiểu hào kiệt.
Dao tưởng Công Cẩn đương niên,
Tiểu Kiều sơ giá liễu,
Hùng tư anh phát.
Vũ phiến luân cân,
Đàm tiếu gian,
Cường lỗ hôi phi yên diệt.”
Tạm dịch nghĩa:
Sông lớn Trường Giang chảy về đông
Con sóng cuồn cuộn đã cuốn trôi bao nhân vật phong lưu thiên cổ
Dãy tường cũ ở phía tây
Người ta nói thời Tam Quốc, Chu Du từng bày trận Xích Bích nơi đó
Đá vụn bắn tung trời, sóng lớn vỗ bờ,
Cuốn đi hàng ngàn đống tuyết.
Giang sơn đẹp như tranh vẽ,
Một thời có bao nhiêu hào kiệt
Nhớ Công Cẩn năm đó
Vừa mới cưới Tiểu Kiều xong
Dáng dấp khoẻ mạnh, tinh anh đã lộ
Tay cầm quạt lông, đầu chít khăn tơ
Vừa nói vừa cười
Thuyền địch đã biến thành mây khói.”
Chu Lang, danh tướng khai quốc công thần của nước Đông Ngô thời Tam Quốc đã được đại văn học gia Tô Thức đời Tống nhắc đến với một khí thế hào hùng trong đoạn thơ trên. Ông chính là đại tướng Chu Du của Tôn Quyền ở Giang Đông – Chu Công Cẩn.
Có lẽ do ảnh hưởng của “Tam Quốc Diễn Nghĩa”, rất nhiều người cho rằng Chu Du là người có nhiều tính xấu như “tâm địa hẹp hòi”, “ghen ghét người tài”, nhưng điều đó hoàn toàn trái ngược với lịch sử chân thật. Chu Du không chỉ có dung mạo tuấn tú, ôn hòa nho nhã, học đủ thi thư, tinh thông binh pháp, am hiểu âm luật, hơn nữa lại độ lượng rộng rãi, tuổi còn rất trẻ đã có hùng tài đại lược, vì thế mới được Lưu Bị gọi là “Tài năng trên muôn người”.
Nho tướng tay cầm quạt lông, đầu chít khăn tơ
Trong “Tam Quốc Chí” ghi chép, Chu Du sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc ở huyện Thư thuộc Lư Giang (chính là tỉnh An Huy ngày nay), ông nội là Chu Cảnh, bác là Chu Trung đều đã từng làm Thái Úy thời Đông Hán (một trong chín chức khanh), phụ thân Chu Dị thì từng làm huyện lệnh Lạc Dương, có thể nói là môn đình hiển hách.
Chu Du có tư mạo của hậu duệ danh môn “tráng kiện uy nghi”, ông có thân hình cao lớn đĩnh đạc, thân thể cường tráng, dung mạo tuấn tú. Không chỉ như thế, Chu Du còn là người văn võ song toàn.
Trong sử có ghi chép, Chu Du thuở thiếu thời đã tinh thông âm luật, ông gảy đàn rất hay, cho dù sau khi đã uống ba chung rượu, người đánh đàn chỉ cần sai một nốt nhạc thì ông đều có thể nhận ra được, cũng sẽ lập tức quay đầu chỉ điểm cho người ta. Bởi vì Chu Du có tướng mạo anh tuấn, nên những cô gái đánh đàn vì muốn được ông để mắt đến, thường cố ý đánh sai nốt nhạc. Dân gian bởi vậy lưu truyền câu “Khúc hữu ngộ, Chu Lang cố” (khúc nhạc nhầm, Chu Lang nhìn). Sau thời Ngụy Tấn, “Chu Lang cố khúc” là điển cố thường được các đại văn hào sử dụng, và xuất hiện trong các tác phẩm văn học như thơ ca, hí khúc. Thi nhân Lý Đoan thời Đường có bài “Thính tranh” đã viết rằng:
“Minh tranh kim túc trụ, Tố thủ ngọc phòng tiền. Dục đắc chu lang cố, Thì thì ngộ phất huyền.”
Tạm dịch nghĩa:
Tiếng đàn tranh từ trụ kê vàng
Bàn tay nõn nà trước phòng ngọc.
Muốn được Chu Lang nhìn đến,
Thỉnh thoảng lỡ cung đàn.
Chu Du tinh thông âm luật, lại nho nhã, về mặt quân sự cũng có tài năng phi phàm. Cuối những năm Đông Hán, quần hùng hưng khởi. Phá Lỗ tướng quân Tôn Kiên khởi binh thảo phạt quyền thần Đổng Trác vì tội phế bỏ Thiếu Đế, đồng thời chuyển nhà đến huyện Thư. Con trai của Tôn Kiên là “Tiểu Bá Vương” Tôn Sách cùng tuổi với Chu Du, hai người có cùng chí hướng, tình như thủ túc. Chu Du còn để Tôn Sách cư ngụ tại căn nhà lớn của mình, lại cùng nhau “thăng đường bái mẫu, không gì không cùng nhau”. Sau đó Chu Du và Tôn Sách hợp binh chinh chiến, đánh đâu thắng đó, xưng bá Giang Đông.
Khi đó, Viên Thuật có thế lực khá mạnh, rất hâm mộ tài năng của Chu Du, đã mời ông đến làm tướng dưới trướng của mình (khi đó Tôn Sách về mặt danh nghĩa vẫn phụ thuộc vào Viên Thuật). Chu Du đã nhận ra Viên Thuật không phải là người có thể thành tựu đại sự, bèn kiếm cớ quay trở về bên cạnh Tôn Sách. Tôn Sách nghe tin Chu Du trở về thì đích thân đi đón, đồng thời trao cho ông chức Kiến uy trung lang bộ tướng, cùng hai nghìn quân và 50 con ngựa để ông điều khiển. Năm đó, Chu Du 24 tuổi, người Ngô Trung đều rất tôn sùng ông, gọi ông là “Chu Lang”.
Sau đó, Chu Du trợ giúp Tôn Sách chinh chiến khắp nơi. Sau khi đánh hạ được đất Hoản (chính là An Huy ngày nay), có hai cô con gái của Kiều gia ở nơi đó, đều là quốc sắc thiên hương. Tôn Sách lấy cô chị là Đại Kiều, còn Chu Du cưới cô em là Tiểu Kiều. Trai tài gái sắc, trở thành giai thoại một thời.
Sau khi Tôn Sách bị thích sát thân vong, Chu Du lấy thân phận là Trung hộ quân cùng với Trường sử Trương Chiêu phò tá em trai Tôn Sách là Tôn Quyền. Trương Chiêu phụ trách công việc triều chính, Chu Du phụ trách lãnh binh bên ngoài chống giặc ngoại xâm, mở mang cương thổ. Khi đó ở Giang Đông có câu nói: “Nội sự bất quyết vấn Trương Chiêu, ngoại sự bất quyết vấn Chu Du”, ý rằng chuyện đối nội chưa quyết được hãy hỏi Trương Chiêu, chuyện đối ngoại chưa quyết được thì hãy hỏi Chu Du.
Chu Du trung thành và cầm quân có phương pháp, liên tiếp tiêu diệt hơn một vạn giặc Khấu, cũng đánh lui đội quân của Lưu Biểu. Năm 208, sau khi Tôn Quyền quyết chí thảo phạt Giang Hạ, Chu Du được bổ nhiệm làm Tiền bộ đại đô đốc.
Khí chất phi phàm, cao cả độ lượng
Trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa”, Chu Du được miêu tả thành một con người có lòng dạ hẹp hòi, luôn đố kỵ với Gia Cát Lượng, nhiều lần muốn hãm hại Khổng Minh vào chỗ chết. Tuy nhiên, sự thật lịch sử là, những cái gọi là Chu Du đố kỵ Khổng Minh, Khổng Minh ba lần chọc tức Chu Du, dẫn đến Chu Du trước khi chết phải thốt lên “Đã sinh Du, sao còn sinh Lượng”…, tất cả đều là giả dối. Chu Du thật sự là một con người có khí chất phi phàm, lòng dạ rộng lớn, cao cả độ lượng.
“Tam Quốc Chí” ca ngợi Chu Du “khí chất phóng khoáng, là người xuất sắc… thực sự kỳ tài.” Ông chiêu hiền đãi sĩ,được mọi người vô cùng yêu mến. Và câu chuyện về Chu Du và đại tướng Trình Phổ được ghi chép trong “Giang Biểu truyện” càng nói rõ hơn về điều này.
Trình Phổ là lão thần Đông Ngô, từng theo Tôn Kiên vào sinh ra tử, lập được nhiều chiến công hiển hách. Ông nhìn thấy Chu Du trẻ tuổi xuất thân gia thế hiển hách và đắc chí, cho nên trong lòng cảm thấy khó chịu, cho rằng Chu Du chỉ dựa vào cái bóng của tiền nhân. Vì thế, ông thường thể hiện vẻ mặt hung hăng khó chịu trước mặt Chu Du, cũng nhiều lần hạ nhục Chu Du. Chu Du hoàn toàn không để bụng, ngược lại càng thể hiện cung kính đối đãi với Trình Phổ, vì lợi ích của quốc gia dân tộc mà hết mực nhường nhịn. Vì vậy, Trình Phổ sinh lòng cảm động, càng tỏ ra kính trọng đối với Chu Du, cũng nói với mọi người xung quanh rằng: “Cùng Chu Công Cẩn kết giao, giống như là uống rượu ngon vậy, không biết là mình đã say mê hắn từ khi nào.”
Có thể để cho một lão thần tâm khí cao ngạo như Trình Phổ tin phục ca ngợi, đủ thấy được tấm lòng rộng rãi và nhân cách cao thượng của Chu Du. Một người như vậy, làm sao có thể ghen ghét đố kỵ với Gia Cát Lượng?
Trong sử còn ghi chép chuyện Tưởng Cán đi du thuyết Giang Đông nhưng không thể thuyết phục được Chu Du, bèn trở về bẩm báo với Tào Tháo, nói rằng Chu Du “độ lượng cao thượng, không phải chỗ nói chơi được”. Còn khi Lưu Bị đến Kinh Khẩu mượn Kinh Châu, từng nói với Tôn Quyền về Chu Du, nói rằng ông “văn võ song toàn, là tinh anh của muôn người”. Ngoài ra, Chu Du từng cho Lưu Bị mượn hai nghìn quân, đây cũng không phải là việc mà một người có lòng dạ hẹp hòi có thể làm được.
Trong “Dung Trai tùy bút” của Hồng Mại thời Nam Tống nói rằng, những tướng soái cầm quân từ xưa đến nay, có rất ít người không tự cao tự đại, không đố kỵ người hơn mình, nhưng “Tứ anh tướng của Tôn Ngô”, tức Chu Du, Lỗ Túc, Lữ Mông và Lục Tốn, đều không phải là người như thế; Chu Du cực lực đề cử Lỗ Túc chính là một ví dụ điển hình. Ít nhất là cho đến đời Tống, hình tượng Chu Du vẫn vô cùng chính diện; thế nhưng bắt đầu từ triều Nguyên, hình tượng Chu Du đã bị bóp méo, ảnh hưởng tới người đời sau.
Đại chiến Xích Bích – Chu Du oai hùng
Trận đại chiến Xích Bích nổi tiếng trong lịch sử về việc lấy ít địch nhiều, tài năng quân sự của Chu Du được đẩy lên một đại vũ đài mới, cũng khiến cho tên tuổi của ông lưu truyền hậu thế. Nguyên do là vì trận chiến Xích Bích này là trận chiến có tính quyết định dẫn đến việc hình thành thế chân vạc của Tam quốc. Không có Chu Du, trận chiến Xích Bích không thể thắng lợi, thậm chí sẽ không có trận Xích Bích trong lịch sử. Bởi vì khi đó quân của Lưu Bị căn bản là không có thực lực để có thể chiến thắng quân Tào.
Mùa xuân năm 208, Chu Du thống lĩnh đại quân chiếm lĩnh được Giang Hạ. Tháng 9, đại quân của Tào Tháo cũng chiếm được Kinh Châu. Quân Đông Ngô và quân Tào một bên dàn quân ở phía Nam sông Trường Giang, một bên dàn quân ở phía Bắc sông Trường Giang, cuộc chiến hết sức cam go căng thẳng. Tào Tháo mang theo chí lớn muốn nhất thống thiên hạ với 80 vạn thủy và lục quân, ý đồ muốn thôn tính Đông Ngô.
Đối diện sự áp sát của đại quân Tào Tháo, nội bộ Đông Ngô xuất hiện hai phái, chủ chiến và chủ hòa. Phái chủ hòa cho rằng Tào Tháo danh chính ngôn thuận, hơn nữa lực lượng quân sự hùng mạnh, Đông Ngô không đỡ nổi một kích; nhưng Chu Du, người được Tôn Quyền triệu hồi thì chủ trương ra sức chống Tào. Khác với trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa” từng miêu tả Gia Cát Lượng khẩu chiến đám nho sinh và kích tướng khiến Chu Du trúng kế; trong chính sử ghi chép rằng Chu Du ra sức dẹp bỏ nghị luận của mọi người, đồng thời có những phân tích sắc sảo.
Đầu tiên, Chu Du nói với Tôn Quyền: “Tướng quân với uy vũ oai phong, cộng thêm sự trung liệt của cha và anh. Cát cứ Giang Đông, nơi đây đất đai mấy nghìn dặm, binh tinh đủ dùng, anh hùng lạc nghiệp, còn đang tung hoành thiên hạ.” Tiến đến, lại chỉ ra rằng quân Tào không quen thủy chiến, hơn nữa mùa đông giá rét, ngựa không đủ cỏ, binh sĩ lặn lội đường xa không quen thủy thổ, nhất định sẽ sinh bệnh, mà đây là điều đại kỵ trong việc dùng binh. Ông còn nói với Tôn Quyền, quân Tào hoàn toàn không đáng sợ, ông chỉ cần 5 vạn tinh binh là có thể cam đoan thủ thắng. Tôn Quyền nghe xong rất vui mừng, ông nói: “Năm vạn binh nhất thời khó tập hợp đủ, hiện tại tuyển chọn trước 3 vạn đã, để huynh và Tử Kính, Trình Công đi nghênh địch trước”. Chu Du liền nhậm chức Chủ soái tả đô đốc, đem quân ngược Trường Giang lên phía Tây, cùng với quân của Lưu Bị hội hợp, cùng nhau đối phó quân Tào.
Cuộc chiến sau đó cũng đã chứng minh được tài năng quân sự trác việt, con mắt tinh tường và mưu lược dũng cảm của Chu Du. Chu Du lĩnh ba vạn thủy quân một mình đối mặt 15 vạn đại quân của Tào Tháo, lấy một chọi năm, đúng là giữa lúc nói cười, khiến quân địch “tan thành mây khói”.
Sử ghi chép, sau khi liên quân Tôn-Lưu hội hợp, đã gặp quân tinh nhuệ của Tào Tháo tại Xích Bích. Bởi vì Chu Du chỉ huy rất thoả đáng, thêm nữa binh sĩ quân Tào không hợp phong thổ, lại không quen thủy chiến, cho nên liên quân Tôn-Lưu đã giành được thắng lợi. Quân Tào tạm thời lui về. Sau đó, quân Tào một mặt huấn luyện thuỷ quân, mặt khác để giải quyết vấn đề lục quân phương Bắc không quen thuỷ chiến, Tào Tháo hạ lệnh đem dây xích liên kết toàn bộ tàu chiến thành một khối.
Hoàng Cái liền đề nghị với Chu Du: “Hiện nay quân tào dùng xích sắt liên kết tàu chiến lại với nhau, chúng ta có thể dùng hỏa công để đối phó bọn họ.” Chu Du cho rằng kế này rất hay, liền để Hoàng Cái viết thư cho Tào Tháo giả hàng, cũng ước định thời gian đầu hàng cẩn thận. Tào Tháo sau khi xem thư xong, cho rằng ngay cả lão thần Hoàng Cái cũng muốn đầu hàng như vậy, Tôn Quyền sắp tới có thể phá rồi. Sau đó, Chu Du chuẩn bị cho Hoàng Cái mười chiến thuyền con, bên trong chất đầy lưu huỳnh và cỏ khô lau sậy đã tẩm qua dầu mỡ, phía trên dùng vải dầu phủ kín, đằng sau mỗi chiếc chiến thuyền lại buộc thêm một chiếc thuyền nhẹ. Đến buổi đêm hẹn trá hàng đó, lại có ông trời trợ giúp, trời bỗng nhiên nổi lên gió Đông Nam. Khi thuyền trá hàng chạy tới cách doanh trại quân Tào chừng hai dặm, Hoàng Cái hạ lệnh các thuyền đồng thời châm lửa, sau đó tất cả nhảy lên chiếc thuyền phía sau, chặt đứt dây thừng nối với thuyền lửa. Cuối cùng quân Tào đại bại, chết và bị thương hơn phân nửa.
Chu Du, vị tổng chỉ huy đại chiến Xích Bích, oai hùng dũng mãnh, đã giành được chiến thắng quan trọng, danh chấn Tam quốc. Ngay cả một người rất ít bại trận là Tào Tháo sau khi trở về Hứa Đô, cũng phải than rằng: “Ta thua cũng không mất mặt!” Đủ để thấy nội tâm của Tào Tháo cũng tán thán đối với mưu lược của Chu Du. Còn chuyện Gia Cát Lượng “thuyền cỏ mượn tên”, “đăng đàn mượn gió Đông” trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa”, trong chính sử là hoàn toàn không có.
Ngôi sao tướng đã rơi
Sau đại chiến Xích Bích, Lưu Bị thừa dịp Chu Du và Tào Nhân đang giằng co tại Giang Lăng, đã giành được 4 quận phía nam của Kinh Châu. Vì để tăng cường liên minh Tôn-Lưu, Tôn Quyền đem em gái của mình gả cho Lưu Bị. Chu Du đã liệu trước Lưu Bị ngày sau tất thành đại sự, liền khuyên Tôn Quyền giữ Lưu Bị ở lại Đông Ngô, nhưng Tôn Quyền không nghe theo.
Về sau, Chu Du lại đề nghị Tôn Quyền tranh thủ thời cơ Tào Tháo mới bị bại trận để tiến công Ích Châu giành lấy Ba Thục, lại cùng liên minh với Tây Lương Mã Siêu để đoạt lấy Tương Dương, rồi tấn công Tào Tháo; Tào Tháo một khi bị phá, đối với Lưu Bị sẽ không có gì phải lo lắng. Suy nghĩ này không bàn mà hợp ý với Gia Cát Lượng. Tôn Quyền cảm thấy chủ ý này không tệ, liền để Chu Du về Giang Lăng chỉnh đốn binh mã.
Năm 210, Chu Du trên đường trở về Giang Lăng thì mắc bệnh nặng, nhưng ông vẫn hết sức gắng gượng đi tới Ba Khâu để chỉnh đốn quân đội. Sau đó đại quân Đông Ngô xuất phát, nhưng không lâu thì Chu Du qua đời vì bệnh, khi đó ông mới có 36 tuổi.
Tôn Quyền nghe tin Chu Du qua đời thì vô cùng đau khổ, khóc nói: “Công Cẩn có tài phò Vương, lại đột nhiên đoản mệnh mà chết, về sau ta biết dựa vào ai?” Ông đích thân mặc đồ trắng cử hành tang lễ cho Chu Du, cũng đến Vu Hồ đón linh cữu Chu Du về an táng trên đất Ngô.
Năm 229, Tôn Quyền xưng Đế. Sau khi xưng Đế, Tôn Quyền lại nói với các quần thần: “Cô phi Chu Công Cẩn, bất đế hĩ.” Ý là nếu như không có Chu Du, thì ông không lên ngôi Hoàng đế được.
Trương Hiến Nghĩa, Tô Minh Chân thực hiện
Sương Sương biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ