Nguyễn Biểu: Cái Dũng của kẻ sỹ nước Nam
Nguyễn Biểu (1350-1413): “Còn ba tấc lưỡi của ta, nhà Trần vẫn còn”
Dương Quýnh, trong bài thơ Tòng Quân Hành có câu:
“Ninh vi bách phu trưởng
Thắng tác nhất thư sinh.”
Tạm dịch:
“Thà làm bách phu trưởng
Hơn Làm một thư sinh”
Trong câu thơ trên có vẻ như vai trò của các sĩ phu Nho giáo khởi tác dụng nhất khi đất nước không có chiến tranh. Còn khi nước mất nhà tan, cả dân tộc bị dày xéo trong binh đao khói lửa thì vai trò của những dũng tướng xông pha trận mạc luôn được người ta nêu cao hơn vai trò của những người trí thức Khổng Môn.
Nhưng “nước loạn biết tôi trung”, những kẻ sĩ Nho học trong lịch sử vệ quốc của Đại Việt luôn có những người mà tấm lòng trung liệt của họ đã ghi vào sử xanh có thể sánh ngang những tướng quân dũng cảm và lừng lẫy nhất.
Một trong những tấm gương đó chính là Nguyễn Biểu, một “ tráng sĩ” thực thụ dưới bộ áo nhà Nho đã để lại đời sau một giai thoại bi thương mà oanh liệt bội phần.
Lớp sĩ phu cuối cùng của nhà Trần, văn tài xuất chúng
Nguyễn Biểu (1350 – 1413) (chữ Hán: 阮表), là tướng nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam, quê ở quê làng Bình Hồ, huyện La Sơn, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh).
Ông là người nổi tiếng thông minh học giỏi “Học một biết mười, văn chương siêu chúng”. Ông đậu Thái học sinh (ngang tiến sĩ sau này) vào khoa thi vào cuối đời Trần và làm đến chức Điện tiền thị Ngự sử.
Sau nhà Hồ chiếm ngôi nhà Trần (1400). Nhà Minh nhân cơ hội sai Trương Phụ đem quân đánh bại nhà Hồ, chiếm nước ta lập thành quận huyện.
Nguyễn Biểu là một trí thức Nho gia yêu nước, ngay từ rất sớm ông đã theo phò tá Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng và là một trong những người đã có nhiều đóng góp cho cuộc khởi nghĩa như: bàn mưu tính kế giúp vua Trùng Quang nhiều lần tiến quân ra Bắc giành được thắng lợi và gây cho quân Minh nhiều thiệt hại, ông còn giúp vua chọn địa thế để đóng đại bản doanh ở vùng Chi La và đốc thúc quân lính xây dựng phòng tuyến kiên cố tại đây.
Trùng Quang Đế kháng chiến thất lợi, Trương Phụ khủng bố nước Nam
Đầu năm 1411, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang 14 vệ, tổng cộng 78.400 quân tiếp viện cho Mộc Thạnh. Tháng 6 âm lịch năm 1412, Trương Phụ, Mộc Thạnh dẫn quân đánh Nghệ An gặp quân của Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung và Hồ Bối ở Mô Độ ở vùng Ninh Bình, Nam Định. Hai bên liều chết đánh nhau chưa phân thắng bại, thì Nguyễn Súy và Nguyễn Cảnh Dị bất ngờ dẫn quân vượt biển rút chạy, Hồ Bối bỏ thuyền lên bờ.
Đặng Dung thế cô, không có cứu viện, liền đi thuyền nhẹ vượt biển trốn đi. Năm 1413, Trương Phụ lại tiến đánh Nghệ An, đến đây nhà Hậu Trần phải lui vào Hóa Châu, đất cố thủ cuối cùng của nhà Hậu Trần
Trương Phụ tiếp tục đem quân vào đánh phá Nghệ An. Quân Minh bao vây các thành tại Thanh Hoá, Diễn Châu.
Tháng 1 âm lịch năm 1413, nhà vua cùng Nguyễn Suý, Nguyễn Cảnh Dị đưa quân theo đường biển tới Vân Đồn, Hải Đông và các vùng ven biển Bắc Bộ nhằm thăm dò, tìm lương thực và đánh tiêu hao quân đội Minh. Chiến dịch này thất bại nặng nề.
“Ngày 4 tháng 3 âm lịch, nhà vua về hành tại Nghệ An, quân đi 10 phần về chỉ còn 3-4 phần.” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Trương Phụ đuổi theo, đến đâu cũng chém giết người vô số để thực hiện chính sách khủng bố tinh thần người Việt:
“Phụ đi đến đâu, giết chóc rất nhiều, có nơi thây chất thành núi, có chỗ moi ruột quấn vào cây, hoặc rán thịt lấy mỡ, hoặc nướng đốt làm trò, thậm chí có đứa mổ bụng lấy thai, cắt lấy hai cái tai để nộp theo lệnh. Kinh lộ các nơi lần lượt đầu hàng. Những dân còn sót lại bắt hết làm nô tỳ và bị đem bán, tan tác khắp bốn phương cả”. (trích Đại Việt sử ký toàn thư).
Tráng sĩ chẳng vương sầu ly biệt,
Chỉ có tài thơ với lòng thành
Tháng 4 âm lịch năm 1413, Trương Phụ lại đánh vào Nghệ An, Trùng Quang Đế phải rút về Hóa Châu, sai Nguyễn Biểu làm sứ đi cầu phong nhằm mục đích làm kế hoãn binh để có thời gian tích lũy quân lực.
Giữa lúc vận mệnh nước nhà như chỉ mành treo chuông. Dẫu biết là việc đi sứ chỉ như dã tràng xe cát, và chuyến đi này sẽ lành ít dữ nhiều, nhưng vua tôi Trùng Quang Đế vốn là những kẻ sĩ văn nhã vẫn ung dung chấp nhận mà không chút sợ hãi. Họ còn làm thơ họa cho nhau đến nay còn lưu truyền đến hậu thế.
Trùng Quang Đế tặng thơ Nguyễn Biểu:
“Mấy vần thơ cũ ngợi hoàng hoa,
Trịnh trọng rày nhân vẳng khúc ca.
Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẽ,
Vó câu nghìn dặm tuyết xông pha.
Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ,
Khương quế thêm cay tính tuổi già.
Việc nước một mai công ngõ vẹn,
Gác Lân danh tiếng dõi lâu xa”
(Tiễn Nguyễn Biểu đi sứ – Trùng Quang Đế)
Cảm kích tấm thịnh tình của nhà vua, Nguyễn Biểu cũng làm thơ họa lại
“Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa,
Ngóng tai đồng vọng thuở thi ca.
Đường mây vó ký lần lần trải,
Ải tuyết cờ mao thức thức pha.
Há một cung tên lồng chí trẻ,
Bội mười vàng sắt đúc gan già.
Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối,
Dịch lộ ba ngàn dám ngại xa.”
(Họa thơ Trùng Quang Đế – Nguyễn Biểu )
Phàn Khoái Hán xưa, vai lợn sống
Kẻ sĩ Nam nay, Cỗ đầu người
Sứ đoàn vừa đến Nghệ An, thì đã bị Trương Phụ bắt lại. Trương Phụ tiếp sứ thần rất khinh bạc, ngạo mạn, sai quân dọn ra một mâm cỗ chỉ có một cái đầu người luộc chín, ép Nguyễn Biểu ăn để thị oai. Nguyễn Biểu ung dung ngồi vào mâm, nói rằng:
“Mấy thuở được ăn thịt người phương Bắc (người Tàu)”
Nói xong lấy đũa khoét đôi mắt, chấm muối ăn. Vừa ăn, vừa tức cảnh mà ngâm bài thơ Cỗ đầu người:
“Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi
Gia hào thêm có cỗ đầu người
Nem công chả phượng còn thua béo
Thịt gụ gan lân cũng kém tươi
Ca lối lộc minh so cũng một
Đọ bề vàng sắt bội hơn mười
Kia kìa ngon ngọt tày vai lợn
Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời”
Tuy chỉ là 1 vị quan văn già tay không tấc sắt nhưng dũng khí và đảm lượng của ông đã chấn nhiếp cái binh uy của Thiên Triều. Tướng giặc Trương Phụ, người nổi danh tàn ác lúc này cũng phải kính phục, toan tha cho ông về. Nhưng hàng tướng là Phan Liêu lúc ấy tâu với Trương Phụ rằng Nguyễn Biểu nói:
“Năng sảm nhân đầu, năng sảm Phụ”
(nghĩa là: Có khả năng nuốt được cỗ đầu người, tất cũng có khả năng nuốt tươi được Trương Phụ).
Trương Phụ giận lắm, đưa câu ấy ra bắt ông phải đối lại. Đối được mới cho về, không đối được thì chém. Nguyễn Biểu đối lại rằng:
“Hựu tồn ngô thiệt, hựu tồn Trần”
(nghĩa là: Còn ba tấc lưỡi của ta, nhà Trần vẫn còn).
Trương Phụ giận lắm, đổi ý không tha nữa, lại sai cắt lưỡi của ông và nói:
“Thử xem cắt lưỡi nó đi, nhà Trần có còn được nữa hay không?”
Kế đó, Trương Phụ sai trói ông vào chân cầu, để cho nước thủy triều lên cao dìm chết. Tương truyền ở dưới chân cầu ông dùng móng tay vạch vào thân cầu tám chữ
“Thất nguyệt, thập nhất nhật Nguyễn Biểu tử” (Nguyễn Biểu tử tiết ngày 11 tháng 7).
Tuy đã giết Nguyễn Biểu, nhưng khí phách của ông đã làm Trương Phụ rất kính phục. Vì thế ông ta đã lấy hậu lễ cho đưa thi hài của ông về an táng tại quê nhà xã Bình Hồ, huyện Chi La.
Sau này vua Lê Thái Tổ sau khi bình định giặc Minh đã sai lập đền thờ cho ông. Nội Diên (hiện nay tại xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ) phong là Nghĩa Liệt Hiển ứng Uy Linh Trợ Thuận đại vương – tức Nghĩa sĩ đại vương. Còn nhân dân miền Nghệ An – Hà Tĩnh thì suy tôn ông là Nghĩa vương.
Đến nay tại đền Nghĩa Liệt vẫn còn 2 câu đối ca ngợi khí phách của ông:
“Tồn Trần kính tiết Thành sơn thạch. Mạ tặc dư thanh Lam thủy ba”.
(Tiết cứng phò Trần đá Nghĩa Liệt. Tiếng vang mắng giặc sóng Lam Giang).
Lời kết:
Văn Thiên Tường đời Tống trước khi mất có câu:
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
Tạm dịch
“Đời người xưa nay ai không chết
Để tấm lòng son sáng sử xanh”
Cùng sinh ra trên đời, cùng là con người với nhau mà tại sao giá trị mỗi người lại khác nhau? Đó chẳng phải cái tinh thần bên trong sẽ quyết định giá trị thật sự của mỗi người hay sao? Nếu bên trong kia là khí phách anh hùng, là tấm lòng son thì chính là sẽ chiếu sáng sử xanh. Nếu nó chỉ là sự hèn kém yếu nhược thì có tô thêm bao nhiêu ngọc ngà châu báu và địa vị cao quý thế nào thì cũng giá trị của nó cũng không hơn rác rưởi là bao.
Vì thế mà đến nay người ta vẫn coi khinh Trần Ích Tắc và hậu thế vẫn khâm phục câu nói của Bảo Nghĩa Vương: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”.
Nguyễn Biểu không có cái may mắn sinh vào thời thịnh Trần để đem tâm tài của mình phò vua giúp nước lập nên sự nghiệp lẫy lừng. Nhưng ông không vì thế mà không làm tròn vai trò kẻ sĩ của mình, đến cuối cùng chẳng hề sợ hãi mà vứt bỏ sinh mệnh của mình để tận trung với quốc gia. Cái đảm lược khi ăn cỗ đầu người của ông sẽ vĩnh viễn được lưu truyền, sánh ngang với tất cả các danh thần nghĩa sĩ khác như một ánh sao rơi tuyệt đẹp cuối cùng khép lại lịch sử huy hoàng của vương triều Trần.
Minh Bảo
Xem thêm: