Lý Thường Kiệt (P12): Công thành thân thoái, khúc tráng ca cuối cùng
Xem lại:P1,P2,P3,P4,P5,P6,P7,P8,P9,P10, P11
Dùng đức trị dân, hoằng dương Phật pháp
Thân là Thái úy nắm đại quyền, lại đánh bại quân Tống ở Trung Quốc, có thể nói thanh danh và quyền lực của Lý Thường Kiệt lúc đó đang như mặt trời giữa trưa. Tuy nhiên ông lại làm một tấm gương cho hậu thế khi nhẹ nhàng trao trả binh quyền chỉ năm năm sau ngày đại thắng (1082), lúc mới 63 tuổi và quay về Thanh Hóa trị nhậm, sống một đời bình đạm cùng với quân dân ở đây.
Suốt 19 năm đó, vùng đất Thanh Hóa dưới thời ông vô cùng thanh bình và tươi đẹp. Sử sách không hề ghi lại bất kỳ biến loạn nào ở đây. Ngoài tài cai trị ra, Lý Thường Kiệt còn là một Phật tử sùng đạo. đã dốc lòng hướng Phật, bảo hộ tăng ni, xây dựng chùa chiền. Chùa Linh Xứng ở Thanh Hóa chính là chùa do ông đích thân dựng nên. Có lẽ nhờ oai trấn của ông và phúc lành của Phật môn bảo hộ đã khiến vùng đất này trở nên yên ổn. Nay chùa không còn nữa, nhưng tấm bia ghi công đức vẫn còn, nhờ đó mà ngày nay hậu thế hiểu thêm về tấm lòng ái quốc và nhân hậu của quan Thái úy Lý Thường Kiệt trong sáng như thế nào.
Vị đại sự Hải Chiếu Pháp Bảo, là một người làm việc ở Thanh Hóa dưới quyền ông, đã ca ngợi công đức ông trong bài bia Linh Xứng. Lời bia nói rằng:
“Ông, trong tỏ khoan-minh, ngoài thì ân-huệ. Sửa đổi tục xấu cho dân, không quản khó nhọc. Làm việc thì cốt tránh làm phiền dân; sai dân thì cốt dỗ dân vui lòng làm việc; vì đó mà dân được nhờ. Đem bụng khoan thứ cứu dân, lấy lòng nhân ái yêu dân; vì đó mà dân kính phục. Lấy vũ oai để trừ lũ ác, lấy chính luật mà xử kiện; nhờ đó mà không ai oán, cho nên ngục thất chẳng cần coi. Xem sự đủ ăn là nguyện của dân, lấy việc cày cấy là gốc của nước; nhờ đó mà mùa không mất. Cai trị giỏi cho nên không cần đánh dẹp. Nuôi nấng những kẻ già nua, cho nên kẻ già được yên. Đạo ông như thế, có thể gọi là gốc để trị dân, thuật để yên dân. Thật là đẹp đẽ!”
Bia chùa Báo Ân cũng chép : “Đến năm Nhâm Tuất, Hoàng đế đặc gia một quận ở trấn Thanh Hóa, quận Cửu Chân, châu Ái, ban cho ông làm phong ấp. Các châu mục đều theo bóng, vạn nhân dân đều mến đức”.
Anh hùng dẫu già, ý chí không già
Năm Kiến An thứ 12, Tào Tháo xuất quân đánh rợ Ô Hoàn, đã cảm khái làm bài từ Quy Tuy Thọ trong đó có câu:
“Lão ký phục lịch, chí tại thiên lý
Liệt sĩ mộ niên, tráng tâm bất dĩ”
Tạm dịch:Ngựa già nằm chuồng, chí ngoài ngàn dặmAnh hùng xế bóng, tráng chí khôn nguôi
Ý nghĩa hai câu trên mang tính khích lệ tinh thần và ý chí tiến thủ của con người, không cam chịu sự giới hạn của tuổi tác, luôn luôn muốn cống hiến tài năng giúp ích cho xã hội. Lý Thường Kiệt đại nhân của chúng ta cũng vậy, sau 19 năm vui chốn điền viên nơi Thanh Hóa, năm 82 tuổi lại được vua vời về kinh giúp nước lần nữa. Chỉ là lần đi này là khúc ca huy hoàng cuối cùng của ông. Hoàn thành một cuộc đời oanh liệt từ đầu đến cuối chứ không chịu chết già trên giường bệnh.
Năm Đinh Sửu 1097, đất nước sau nhiều năm thanh bình bỗng xảy ra nhiều họa hoạn. Đầu tiên là Thái sư Lê Văn Thịnh mắc tội dùng phép thuật hại vua bị đày đi Thao Giang. Trong nước thì thiên tai động đất, đến năm Canh Thìn 1101 lại xảy ra dịch bệnh to. Hoàng đế đã lớn tuổi mà chưa có Thái tử để lập làm trữ quân.Để thể hiện ý chí canh tân vận nước, năm 1101 Hoàng đế chiếu đổi niên hiệu Long Phù, triệu Thái úy Lý Thường Kiệt về cung.
“Canh Thìn, /Hội Phong/ năm thứ 9 [1100], (Tống Nguyên Phù năm thứ 3). Mùa Đông, tháng
12, bệnh dịch lớn.
Tân Tỵ, Long Phù năm thứ 1 [1101], (Tống Huy Tông Cát, Kiến Trung Tĩnh Quốc năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, đổi niên hiệu. Cho Thái úy Lý Thường Kiệt kiêm chức Nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự”.(Đại Việt sử ký toàn thư)
Lý Thường Kiệt về kinh ít lâu thì đất Diễn Châu có người nổi loạn. Ông thân chinh cầm quân, quân giặc bị đánh tan.“Quý Mùi, /Long Phù/ năm thứ 3 [1103], Mùa Đông, tháng 10, người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản. Giác trước học được thuật lạ, có thể biến cây cỏ làm người, bèn chiêu tập những kẻ vô lại chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Việc tâu lên, vua sai bọn Lý Thường Kiệt đi đánh. Giác thua trốn sang Chiêm Thành, dư đảng đều bị dẹp yên”. ( Đại Việt sử ký toàn thư)
Không dừng lại ở đó, Lý Giác sau khi bại trận trốn sang Chiêm Thành đã chỉ đường dẫn lối cho vua Chiêm Thành xâm lấn biên cương nước ta hòng lấy lại ba châu mà vua trước là Chế Củ đã dâng cho nhà Lý. Tuy năm đó đã 85 tuổi nhưng Lý Thường Kiệt lần nữa vẫn hăng hái cầm quân viễn chinh ngàn dặm. Tính ra với lịch sử cầm quân của ông đánh Nam dẹp Bắc từ Tống đến Chiêm hầu như đều thắng lợi, đến 85 tuổi vẫn cầm quân xông trận, so với danh tướng cổ như Liêm Pha, Triệu Tử Long hay Mã Viện thật không hề thua kém chút nào.
“Giáp Thân, mùa xuân, tháng 2, sai Lý Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành. Trước đó Lý Giác thua chạy vào đất Chiêm, nói tình hình hư thực của nước ta. Vua Chiêm Thành là Chế Ma Na nhân thế đem quân vào cướp, lấy lại 3 châu Địa Lý v.v… mà Chế Củ đã dâng. Đến đây, sai Lý Thường Kiệt đi đánh, phá được, Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy”. (Đại Việt sử ký toàn thư).
Tuy nhiên sức người không thể thay đổi mệnh trời, con người ai rồi cũng phải chết.Ngay sau khi đánh dẹp Chiêm Thành thành công, quay về kinh đô thì ông mất.“Ất Dậu, Mùa hạ, tháng 6, Thái úy Lý Thường Kiệt chết, tặng chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, thực ấp 1 vạn hộ, cho người em là Lý Thường
Hiến được kế phong tước hầu” (Đại Việt sử ký toàn thư)
Thay cho lời kết:
Sử gia các đời có nhiều lời khen ngợi dành cho ông. Như sử gia Ngô Thì Sĩ, người đã nghiên cứu nhiều về sử của cả hai bên Việt Hoa, đã viết lời bình rất xác đáng về Lý Thường Kiệt:
“Nước ta đánh nhau với quân nước Trung-Hoa nhiều lần, từ Vua Nam Đế trở về trước, việc đã lâu rồi, sau này Vua Ngô tiên chúa đánh Bạch Đằng, vua Lê Đại Hành đánh trận Lạng Sơn, Vua Trần Nhân Tông đánh đuổi được Toa Đô, Thoát Hoan, những trận được vẻ vang đó là câu chuyện hãnh diện của nước ta, nhưng đều là giặc đến đất nước, bất đắc dĩ mà phải ứng chiến. Còn đến đường đường chính chính đem quân vào đánh nước người, khi đánh không ai địch nổi, khi kéo quân về không ai dám đuổi theo, như trận đánh Ung Liêm này thật là đệ-nhất võ công, từ đấy người nước Tàu không dám coi thường chúng ta, đến những đồ cống, hình thức thơ từ, không dám hà trách, chỉ sợ lại sinh ra hiềm khích. Đến thơ từ của nước ta đưa cho Trung-Hoa chỉ dùng có 2 tấm ván sơn đen, liệt tên vài vị Đại-thần dùng ấn tín Trung-thư-môn-hạ mà đóng vào, thế thì triều Lý được trịch với Tống nhiều lắm”.(Việt sử tiêu án)
Lời của Ngô Thì Sĩ nhận xét quá xác đáng và cụ thể, người viết không thể bổ sung gì thêm về các chiến công của ông. Tuy nhiên có thể nói thêm về mặt tác dụng của những cuộc chiến ông tiến hành trong đại kế phát triển dân tộc và đất nước thì quả là có tác dụng vô tiền khoáng hậu. Nếu ông không quyết tâm phù tá Lý Nhân Tông còn nhỏ, không cương quyết chọn Ỷ Lan và mạnh tay diệt trừ phe đảng Dương Thái Hậu, hay không quyết đoán đem quân đánh Tống thì có lẽ lịch sử đã thay đổi tệ hơn.
Có thể nói, với áp lực đến từ phương Bắc lớn như thế, nếu không có một vị đại tướng thao lược quyết đoán như ông làm ra các chiến công định mệnh thì nước ta sẽ không thể có nổi một nền thái bình vững chắc với Trung Quốc cả trăm năm sau cho đến đời Trần. Nhờ nền thái bình đó mà nước ta yên tâm xây dựng quân đội, tích lũy xây dựng nền tảng vững chắc để có thể đẩy lùi bất kỳ kẻ thù nào. Vốn liếng trăm năm kinh nghiệm xây dựng đó của nhà Lý được nhà Trần kế thừa mà nhanh chóng ổn định quốc gia, đánh bại quân Mông Nguyên. Do đó ở tầm nhìn chiến lược cao xa hơn này, chúng ta mới thấy hết sự vĩ đại của Lý Thường Kiệt và các chiến công phạt Tống của ông. Đúng thật là chịu hy sinh gian lao một đời, để đổi lấy nền thái bình trăm năm cho nước nhà. Quả là đánh kính thay, to lớn thay công lao của Thái úy Việt Quốc Công Lý Thường Kiệt.