Lý Thường Kiệt (P1): Vị tướng quân với huyền thoại Nam quốc sơn hà
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Có những con người ứng thiên mệnh sinh ra để sáng tạo nên lịch sử. Lý Thường Kiệt chính là một trong hai người như thế. Dù Đại Việt có vô số danh tướng vua quan hào kiệt, nhưng những gì Lý Thường Kiệt đã làm cho dân tộc này là mở ra một thời đại độc lập vững chắc làm tiền đề cho nghìn năm độc lập tiếp theo. Không có chiến công của ông cùng vô số anh linh tướng sĩ tử thủ Như Nguyệt giang, ắt hẳn sẽ không có một Đại Việt đủ sức quật ngã Nguyên Mông, sẽ không có một Đại Việt có đủ sức mạnh trải dài xuống phương Nam thành kế rễ sâu gốc vững, hoàn toàn làm chủ mảnh đất xinh đẹp này.
Nhất chiến định thiên hạ, định luôn cả cục diện hòa bình vững mạnh trăm năm sau đó, Lý Thường Kiệt quả xứng là đệ nhất thần tướng nghìn năm có một của dân tộc Việt Nam ta.
Vị tướng quân với huyền thoại Nam quốc sơn hà lừng danh này và tài cầm quân cùng đức độ trị dân phò vua của ông nghìn năm qua vẫn luôn là tấm gương sáng nhất cho hậu nhân noi theo.
Dòng dõi danh thần, tuổi trẻ chí cao
Lý Thường Kiệt (chữ Hán: 李常傑 1019 – 1105) làm quan trải ba đời Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông. Ông sinh ra ở Thăng Long, người phường Thái Hòa. Lý Thường Kiệt là lấy theo quốc tính họ vua sau khi ông lập công và được phong chức Thiên tử nghĩa nam (con nuôi của vua). Còn họ tên thật của ông đến nay vẫn có hai giả thuyết khác nhau nhưng có lẽ thuyết họ Ngô là khả tín hơn vì thấy có ghi tương tự trong các sử liệu khác nhau.
Tên thật của ông theo thuyết này được là Ngô Tuấn (吳俊), biểu tự Thường Kiệt (常傑), sau được ban quốc tính nên có tên là Lý Thường Kiệt. Thuyết này dựa trên bia Nhữ Bá Sĩ thời Nguyễn, có lẽ soạn dựa vào các thần phổ đời xưa.Ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Sứ quân Ngô Xương Xí và chắt của Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập – con trai trưởng của Ngô Quyền. Trong Việt điện u linh tập cũng chép tên của cha ông là An Ngữ.
“Ông họ Lý tên Thường Kiệt người phường Thái Hòa bên hữu kinh Thăng Long; thân phụ tên là An Ngữ, làm quan đến Sùng Ban Lang Tướng, đời này qua đời kia được tập ấm. Ông nhiều mưu lược, có tài tướng soái, lúc nhỏ phong tư tuấn nhã, có tiếng khen ra ngoài, được sung làm chức Hoàng Môn Ký Hầu. Đời Lý Thái Tông hằng thiên lên chức Nội Thị Tỉnh Đô Tri. Thánh Tông bái chức Hiệu Uý Thái Bảo.” (trích Việt Điện U linh tập Lý Tế Xuyên).
Như vậy ta có thể thấy Lý Thường Kiệt vốn là dòng dõi tôn quý, là con cháu tập ấm của một gia đình tướng lĩnh nhiều đời. Không may là cha mất sớm khi ông mới 13 tuổi, tuy vậy ông vẫn được gia đình đào tạo và cho học hành bài bản để có thể kiến công lập nghiệp sau này.
Thời nhà Lý mới lập quốc, Nho giáo chưa thịnh nên con đường tiến thân nhanh nhất vẫn là cầm quân đánh giặc. Vì thế Lý Thường Kiệt từ bé đã lập chí lớn, muốn trở thành một danh tướng có sự nghiệp lừng lẫy.
“Khoảng niên hiệu Thiên thành, đời Lý Thái Tông, cha đi tuần biên địa, ở Tượng châu, thuộc Thanh Hóa, bị bệnh rồi mất vào năm Tân mùi (1031). Thường Kiệt bấy giờ mười ba tuổi, đêm ngày thương khóc không dứt. Chồng cô, là Tạ Đức thấy thế, đem lòng thương và dỗ dành. Nhân đó hỏi ông về chí hướng. Ông trả lời: ” Về văn học, biết chữ để ký tên là đủ. Về vũ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ, lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện”. Tạ Đức khen là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Thuần Khanh cho ông, và dạy cho học các sách binh thư họ Tôn, họ Ngô.
Thường Kiệt đêm ngày học tập. Đêm đọc sách, ngày tập bắn cung, cưỡi ngựa, lập doanh, bày trận. Các phép binh thư đều thông hiểu cả. Tạ Đức lại khuyên đọc sách nho. Thường Kiệt rất chịu gắng công học tập, nên chóng thành tài.”(Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý Hoàng Xuân Hãn)Lạm bàn: Thời thịnh của võ tướng, lấy quân công tiến thân mà Lý Thường Kiệt vẫn cần mẫn đọc sách Nho cùng với binh thư đồ trận quả là việc hiếm thấy. Điều này hứa hẹn một tương lai xuất chúng, siêu việt tất cả bá quan của ông vậy. Mấy chục năm xuất tướng nhập tướng tài kiêm văn võ của ông đã chứng minh sự vượt trội của nền giáo dục mà ông được nhận từ nhỏ.
Thanh niên ôm hận lớn, khuất thân nhập cấm cung
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng khởi đầu sự nghiệp Lý Thường Kiệt chỉ là một viên võ quan nhỏ “kỵ mã hiệu úy”, nhưng Lý Thường Kiệt đã chấp nhận cơ hội do vua ban cho, chịu tự hoạn để vào cung cấm làm chức Hoàng môn chi hậu (hoạn quan). Đến nay vẫn không ai có thể lý giải vì sao Lý Thường Kiệt lúc đó vừa mới hơn 20 tuổi, đã có gia đình, lại là con nhà dòng tướng lại chịu khuất thân vào cung làm hoạn quan? Đây quả là một bí ẩn vô cùng lớn chưa hề được giải khai trong lịch sử.
Xét lại câu nói đầy chí khí của ông về một ước mong sự nghiệp vĩ đại lúc nhỏ và các công nghiệp hiển hách ông lập nên sau này, ta có thể thấy rằng ước nguyện “kiến công lập nghiệp” của ông mạnh đến nỗi ông có thể từ bỏ mọi thứ để đạt được điều đó. Nhiều sử gia vẫn cho rằng Lý Thường Kiệt tiến nhập cấm cung là muốn gần Hoàng đế để thăng quan nhanh chóng. Tuy nhiên bản thân người viết lại không ủng hộ thuyết trên cho rằng Lý Thường Kiệt vào cung làm hoạn quan để thăng tiến. Vì xét trình độ kiến thức, võ công của ông thuộc vào hàng hiếm có thời đó, lại thêm bản thân đang làm quan, bố vợ cũng làm quan, gia tộc quyền quý danh giá, con đường hoạn lộ của ông không cần thiết phải khuất thân vào đại nội làm một hoạn quan. Vả lại Lý Thường Kiệt sùng bái Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh là hai tướng quân đánh Hung Nô được phong hầu nổi tiếng. Thời đại của hai vị tướng đó là nhà Hán, lúc đó không ai cho rằng việc vào cung làm thái giám rồi thành quan to là vinh quang hết. Hơn nữa, khi xét trong cả hai triết thuyết lớn là Phật và Nho thời ấy thì đều không cho phép một người vì danh vọng mà tự tàn hủy bản thân mình, nhất là Nho giáo. Vì thế mà người viết mạo muội cho rằng Lý Thường Kiệt quả thực có 1 lý do lớn và vô cùng khuất tất mới phải vào triều làm hoạn quan. Điều này đã được lý giải qua nghiên cứu và trình bày trong tiểu thuyết lịch sử Nam quốc sơn hà của tác giả Trần Đại Sỹ. Qua các tư liệu hiếm hoi còn sót lại trong các thư tịch ở Trung Quốc, các Thần phả và những tư liệu của các gia tộc tướng lãnh thời đó, ông kết luận rằng Lý Thường Kiệt chính là bị hãm hại mà phải vào triều làm hoạn quan. Người hại Lý Thường Kiệt chính là Thượng Dương thái hậu, người yêu cũ và cũng là vị hoàng hậu uy quyền, nên Lý Thường Kiệt đành phải ôm hận cả đời mà làm hoạn quan. Sau này chính tay Lý Thường Kiệt khi nắm binh quyền đã trợ giúp cho Ỷ Lan thái hậu thực hiện một cuộc thanh trừng chớp nhoáng mà đẫm máu trong nội cung, giết chết Thượng Dương thái hậu cùng 76 cung nữ. Chúng ta có thể cảm thấy đây hoàn toàn không phải là một chuyện trùng hợp. Chỉ có thâm cừu đại hận mới có thể khiến người ta ra tay nhanh chóng mà gọn ghẽ như vậy. Cũng là minh chứng cho câu nói “quả báo nhãn tiền”. Quả thật là thương tâm thay.
Ôm mối hận lớn trong lòng vào cung làm thái giám để truy ra kẻ đã hại mình, và ông Trời có mắt đã không phụ lòng Lý Thường Kiệt. Một thời gian không lâu sau đó các cơ hội liên tiếp đến để ông đón gió trở cờ nhanh chóng leo lên vị trí nắm giữ trọng binh, chấp chưởng quân quyền.
“Năm lên 23 tuổi, là năm Tân Tỵ (1041), niên hiệu Càn phù hữu đạo đời Lý Thái Tông, ông được bổ vào ngạch thị vệ để hầu vua, và sung chức Hoàng môn chỉ hậu. Chức này là một chức hoạn quan.”(Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Hoàng Xuân Hãn)
“Ông nhiều mưu lược, có tài tướng soái, lúc nhỏ phong tư tuấn nhã, có tiếng khen ra ngoài, được sung làm chức Hoàng Môn Ký Hầu” (trích Việt Điện u linh tập, Lý Tế Xuyên)
Theo thời gian, bằng năng lực của mình, ông lại được theo đúng lộ trình thăng lên những chức vụ quan trọng trong triều đình.
“Ông vào cấm thất chưa được một kỷ (12 năm), tiếng nổi nội đình. Được thăng nhiều lần, lên đến chức Đô tri, ông coi tất cả mọi việc trong cung. (Việt Điện u linh tập). Năm Lý Thánh Tông lên ngôi (1054, ông 36 tuổi), vì đã có công phù dực, ông được thăng chức Bổng hành quân hiệu úy, tức là một chức vũ quan cao cấp. Hàng ngày, ông hầu cận bên vua, hiến việc tốt, can việc xấu, giúp vua hết mọi cách. Vì cần lao giúp rập, nên được cất lên chức Kiểm hiệu thái bảo, tức là một chức tại triều rất cao.” (Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Hoàng Xuân Hãn)
Lời bàn:
Khi gặp phải những đại nạn trong đời gây tổn hại đến bản thân, cách người ta phản ứng với nó sẽ quyết định tầm vóc sự nghiệp của người ấy về sau. Lý Thường Kiệt chịu khuất thân vào cung cấm làm hoạn quan để rồi mấy chục năm sau nước ta có một vị danh tướng lừng danh. Người xưa hay nói rằng khi trời muốn giao trọng trách cho ai đó thì sẽ làm cho người ấy khổ sở đau đớn rồi mới dùng, trường hợp Lý Thường Kiệt quả là đúng lắm thay.
(Còn tiếp)
Lý Thường Kiệt (P3): Lựa chọn lịch sử của bậc vĩ nhân