Vị Vua mang đến nhiều điềm lành nhất trong sử Việt
Vua Lý Nhân Tông là con của vua Lý Thánh Tông và Nguyên phi Ỷ Lan, sinh năm 1066. Đây là vị Vua mang đến nhiều điềm lành nhất trong lịch sử Việt Nam.
Lý Nhân Tông là vị Vua có thời gian trị vì lâu nhất Việt Nam, lên ngôi năm 7 tuổi (năm 1072) đến năm 1128 thì mất, tức hơn 55 năm. Thời kỳ này cũng đánh dấu giai đoạn thịnh vượngnhất trong lịch sử nhà Lý, và là một trong những giai đoạn văn minh bậc nhất trong sử Việt.
Thuở đầu vì vua Nhân Tông nối ngôi lúc tuổi còn nhỏ nên Nguyên phi Ỷ Lan, Thái úy Lý Thường Kiệt, và Thái sư Lý Đạo Thành trở thành những trụ cột giúp giang sơn vững mạnh.
Dù đất nước bị kìm kẹp bởi liên minh Tống – Chiêm, nhưng với sự phò tá của vị tướng tài Lý Thường Kiệt, Đại Việt đã đánh Tống bình Chiêm và phá tan được thế liên minh này. Từ đó, giang sơn Việt bước vào giai đoạn toàn thịnh, văn minh phát triển rực rỡ.
Về mặt giáo dục, trước đó vào năm 1070, vua Lý Thánh Tông đã cho xây dựng Văn Miếu. Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép rằng:
Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.
Như vậy ngoài việc thờ các bậc thánh hiền, Văn Miếu còn là một trường học hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức lúc đó mới năm tuổi, tức vua Nhân Tông sau này.
Vào năm 1075, vua Lý Nhân Tông đã cho tổ chức kỳ thi khoa bảng đầu tiên, khoa thi “Tam trường”, để chọn 10 sĩ tử tài giỏi nhất. Trạng nguyên khoa bảng đầu tiên của Đại Việt chính là Trạng nguyên Lê Văn Thịnh (Bắc Ninh).
Năm 1076 vua Lý Nhân Tông cho xây dựng trường Quốc Tử Giám bên cạnh Văn Miếu, đây được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Rất nhiều nhân tài giúp giang sơn xã tắc giàu mạnh đều xuất thân từ ngôi trường này.
Ngoài việc phát triển Nho học và giáo dục, vì nhà Vua và mẹ (Thái hậu Linh Nhân) đều là những Phật tử mộ đạo nên đã cho xây nhiều chùa chiền và khuyến khích việc hành đạo của các thiền sư. Phật Pháp được truyền đi khắp nơi. Vua dùng Phật Pháp để giáo hóa dân chúng, khiến giang sơn thái bình, xã tắc ổn định. Nhiều việc kỳ lạ xuất hiện trong thời kỳ này đã được ghi chép trong Đại Việt Sử ký Toàn thư.
Năm 1083 “Rồng vàng bay từ điện Tử Thần đến điện Hội Long”
Năm 1117 “tháng 3, ngày Bính Thìn, vua ngự đến núi Chương Sơn để khánh thành bảo tháp Vạn Phong Thành Thiện. Có rồng vàng hiện”. Núi Chương Sơn chính là núi Ngô Xá ở xã Yên Lợi, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam ngày nay; bảo tháp Vạn Phong Thành Thiện từ thời Lý Nhân Tông đến nay vẫn còn.
Cũng trong năm 1117, Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhận: “Rồng vàng hiện ở bảo đài, cầu đảo ở Động Linh”.
Trong lịch sử, hiện tượng “móc ngọt” (tức mưa ngọt) là rất hiếm, nếu xuất hiện được xem là điềm lành. Thời vua Lý Nhân Tông xuất hiện 3 lần “móc ngọt” đều được ghi chép lại trong Đại Việt Sử ký Toàn thư.
Năm 1080 “mùa thu, tháng 8, móc ngọt xuống. Vua đem đua thuyền”.
Năm 1111, 1112 cả nước được mùa lớn, xuất hiện mặt trời có hai quầng. “Nhâm Thìn, (Hội Tường Đại Khánh) năm thứ 3 (1112), (Tống Chính Hòa năm thứ 2). Mùa xuân, móc ngọt xuống”.
Năm 1118 “có mọc ngọt xuống, vua tự tay viết tám chữ, ‘Thiên hạ thái bình, thánh cung vạn tuế’ vào bia, sai thợ khắc.”
Không chỉ coi trọng giáo hóa dân chúng, Lý Nhân Tông rất quan tâm đến nông nghiệp – thủy lợi. Ông được xem là người khởi công đắp những con đê lớn đầu tiên của Đại Việt. Tháng 9 âm lịch năm 1077, triều đình sai đắp đê trên sông Như Nguyệt, sách Đại Việt sử lược mô tả đê này “dài 67,380 bộ”.
Đại Việt sử lược cũng chép rằng năm 1103, nhà vua ra lệnh cho cư dân Thăng Long làm đê chống lũ, ở cả nội đô lẫn ngoại ô. Mùa xuân năm 1108, Nhân Tông sai đắp đê tại Cơ Xá – đây là đoạn đê sông Hồng gần cầu Long Biên ngày nay.
Năm 1117, Nhân Tông theo lời Thái hậu, ra quy định cấm giết trâu bò bừa bãi: ai mổ trộm trâu bị phạt 80 trượng và bị tội phải làm người hầu trong quân đội; người giết trâu và ăn trộm trâu đều phải bồi thường; hàng xóm biết mà không tố cáo cũng bị phạt 80 trượng.
Bấy giờ đất nước thường được mùa, hoặc trúng mùa lớn. Nếu khi hạn hán mất mùa thường mở kho lương phán chẩn, giảm tô dịch, đất nước nhanh chóng cường thịnh. Nhân Tông rất thường hay xem gặt lúa ở các nơi, cũng như xem bắt voi, lễ hội… để tỏ rõ sự cường thịnh của Đại Việt lúc đó.
Đánh giá về vua Lý Nhân Tông, cuốn “Đại Việt Sử lược” thời nhà Trần có ghi rằng:
Ngài là người có xương trán nổi lên như mắt trời, ấy là dáng mặt của bậc Thiên Tử, và tay thì buông dài quá đầu gối.
Trong bài “Đại Việt thông giám tổng luận”, sử thần Lê Tung nhận xét rằng:
Nhân Tông tính trời nhân hiếu, có tiếng đức tốt, kén chọn và coi trọng danh thần, đặt khoa thi tiến sĩ, có quan hầu kinh diên, xuống chiếu mở đường nói, cầu người hiền, nghe lời can, nhẹ thuế khoá, ít phu dịch, cho nên thân được hưởng thái bình, dân trở nên giàu thịnh, đáng gọi là bậc vua giỏi nối đời thái bình vậy.
Ngẫm lại, chúng ta thường tự hào về những trang sử đánh bại quân xâm lược của cha ông, nhưng đôi khi lại lãng quên những thời kỳ thịnh trị xứng đáng ngưỡng vọng.