Lão Tử giáng trần truyền Đại Đạo
Tư tưởng “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp Đạo” xuất hiện sớm nhất từ Phục Hi, một trong “Tam Hoàng” ở thời kỳ thượng cổ, ông căn cứ theo lí biến hóa âm dương giữa trời và đất, dựa vào sự lên xuống của nhật nguyệt mà ngộ ra sự thâm sâu của càn khôn, từ đó mà lập nên thái cực, định ra ngũ hành, chế tạo bát quái.
Phục Hi dùng âm dương bát quái để giải thích quy luật diễn hóa của thiên địa vạn vật và trật tự của nhân luân, điều này cũng là nền tảng tư tưởng mà người đời sau vận dụng Dịch kinh và bát quái để xem quẻ hung cát. Bát quái của Phục Hi đã chỉ ra rằng cần tuân theo quy luật: người nên thuận theo pháp của đất, đất nên thuận theo pháp của trời, trời nên thuận theo pháp của “Đạo”, “Đạo” lại chính là quy luật tự nhiên, là quy luật của vũ trụ. Người ở giữa trời và đất, thì nên biết trời biết đất, nên hiểu biết vị trí của con người trong giới tự nhiên và trong xã hội, nên thuận theo pháp của trời đất. Phục Hi cảm ngộ quy luật vận động biến hóa của thiên địa vạn vật, đặt nên hệ thống hoàn chỉnh và quan niệm tổng thể tam tài thống nhất – “thiên, địa, nhân”.
Đến thời kỳ khai tổ Hoàng Đế của dân tộc Trung Hoa cách đây 5,000 năm, cùng với việc lấy đức cảm hóa thiên hạ, ông cũng tích cực cầu đạo, cuối cùng đắc đạo thành Tiên. Hiển nhiên, Hoàng đế xuất hiện ở thế gian thông qua hình thức “Đế vương trị thế” kiêm “người tu luyện đắc đạo” để chứng tỏ và giải thích về sự liên hệ giữa “thiên văn” và “nhân văn”. Lấy thân phận “nhân văn sơ tổ” để dẫn dắt thiên hạ diễn màn“thiên nhân hợp nhất” cho 5000 năm sau. Hoàng Đế sau cùng viên mãn trở về, cũng là để nói với người thế gian rằng tu đạo từ xưa đã có, nhân loại có thể thông qua tu luyện để quay trở về trời, con đường duy nhất liên thông giữa người và Thần chính là “tu luyện”.
Tuy nhiên, cùng với sự bại hoại của đạo đức nhân loại, đại đạo cũng dần dần biến mất. Vì để đạo đức nhân loại duy trì ở một mức độ nhất định, đồng thời khiến người có duyên có thể đắc đạo trở về trời, Thần Phật đã phái sứ giả truyền bá văn hóa có liên quan đến chân pháp và chân đạo. Lúc này, Lão Tử nhập thế gian lưu lại một cách có hệ thống “lý luận Đạo gia” cho con người.
Lão Tử, không rõ ngày sinh và mất của ông. Trong Sử Kí ghi chép rằng ông là người ở xóm Khúc Nhân thuộc huyện Khổ, nước Sở (nay là huyện Lộc Ấp, tỉnh Hà Nam), sống vào thời kỳ Xuân Thu, sau này cũng có người nói rằng ông là người nước Tống. Sử Kí nói rằng Lão Tử họ Lí, tên là Trọng Nhĩ.
Liệt Tiên toàn truyện và truyền thuyết dân gian đã chỉ ra rằng vào thời nhà Chu, Lão Tử từ Thái Thanh Tiên Cảnh phân thần hóa khí, ngồi trên Mặt trời, cưỡi chín rồng, hóa thành viên đan ngũ sắc từ trên Trời giáng xuống trần, con gái của Huyền Diệu Vương là Doãn thị ban ngày đang nằm nghỉ ngơi thì cảm thấy như nuốt phải viên đan, sau khi tỉnh dậy thì phát hiện có thai. Doãn thị sau khi có mang Thánh thai thì thần khí an nhàn, dung mạo trẻ hóa, trong phòng ở thì lục khí bình hòa, tường quang chiếu hộ. Sau hạ sinh một bé trai. Đứa bé này vừa mới ra đời đã đi 9 bước, nơi mỗi bước chân đặt xuống đều nở ra hoa sen. Khi vừa mới sinh ra thì đầu tóc đã bạc phơ, vì vậy được đặt tên là “Lão Tử”, hay còn gọi là “Lão Đam”, “Đam” ý nghĩa là tai lớn.
Trong Dậu dương tạp trở – Ngọc cách của tác giả Đoàn Thành Thức thời Đường cũng có ghi chép tương tự: “Lão Quân mẫu viết Huyền Diệu Ngọc Nữ. Thiên giáng huyền hoàng, nhập khẩu nhi dựng… tuế tại giáp tử, đản vu phù đao” (tạm dịch: Mẫu thân của Lão Quân là Huyền Diệu Ngọc Nữ, Trên trời giáng xuống màu sắc của thiên địa, trực tiếp chui vào bụng của Huyền Diệu Ngọc Nữ, từ đó bà mang thai… ở tuổi 60 sinh hạ Lão tử). Lão Quân tức chỉ Lão Tử, ông tổ của Đạo gia.
Thái bình quảng ký đời nhà Tống đã tổng kết những truyền thuyết được truyền qua các thời đại có liên quan đến lai lịch thân thế của Lão Tử. Tương truyền mẫu thân của ông sau một lần trông thấy một ngôi sao băng lớn bay ngang qua bầu trời thì đậu thai. Vì khí của Thần linh trên thượng giới xuất hiện tại Lý gia, vì vậy Lão Tử sau khi sinh ra đời thì mang họ Lí của người phàm. Có người nói Lão Tử sinh ra trước cả khi khai thiên lập địa, là tinh linh thần phách của trời, nên đương nhiên chính là một vị Thần linh. Còn có người nói rằng mẫu thân của Lão Tử mang thai ông suốt 72 năm mới hạ sinh ông từ nách bên trái của bà, vừa mới sinh ra đời đầu tóc đã bạc phơ, vì vậy mới có tên gọi là “Lão Tử”.
Cũng có người nói rằng mẫu thân của Lão Tử vừa hay sinh ra ông ngay dưới cây mận ( mận tiếng Hán viết là 李 cùng cách viết với họ Lí 李, Lão Tử khi vừa lọt lòng đã biết nói, liền chỉ vào cây mận ở trong vườn rồi nói: “thử ngô tính dã” (đây là họ của tôi). Đây có lẽ là nguyên do mà Sử Kí lấy họ Lí làm họ của ông.
Còn có người nói rằng, Lão Tử vào thời Thượng Tam Hoàng chính là Huyền Trung pháp sư, vào thời Hạ Tam Hoàng thì là Kim Khuyết Đế Quân, vào thời Phục Hi thị thì là Úc Hoa Tử, vào thời Thần Nông thị thì là Cửu Linh Lão Tử, vào thời Chúc Dung thì là Quảng Thọ Tử, vào thời Hoàng Đế thì là Quảng Thành Tử, vào thời Chuyên Húc thì là Xích Tinh Tử, vào thời Đế Khốc thì là Lộc Đồ Tử, thời vua Nghêu thì là Vụ Thành Tử, thời vua Thuấn thì là Doãn Thọ Tử, thời Hạ Vũ thì là Chân Hành Tử, thời nhà Ân thì là Tích Tắc Tử, thời Chu Văn Vương thì là Văn Ấp tiên sinh.
Phàm là người nhận mệnh từ trời thì tất nhiên sẽ là người hiểu rõ thông suốt những điều thần bí, khí chất bẩm sinh của Lão Tử cũng không giống với người thường, người như vậy lẽ đương nhiên là thân mang sứ mệnh, cũng tất nhiên sẽ có được sự trợ giúp của Thiên Thần. Truyền thuyết tuy nhiều, nhưng thông tin mấu chốt được bao hàm trong đó không ngoài việc Thượng Thiên an bài Lão Tử đến thế gian để truyền bá văn hóa tu luyện phản bổn quy chân và Đạo gia tu đạo về trời.
Thương Dung khởi ngộ
Lão Tử thuở nhỏ đã thông minh, trầm tư hiếu học. Ông từng theo học Thương Dung, Thương Dung thông hiểu thiên văn địa lý, uyên thâm cổ kim lễ nghĩa, thời bấy giờ được xưng tụng là “Thần nhân”.
Những câu chuyện có liên quan đến mối quan hệ thầy trò giữa Thương Dung và Lão Tử, cùng với việc Thương Dung dạy Lão Tử từng được ghi chép trong Cao Sĩ truyền của Hoàng Phủ Mịch dưới triều đại nhà Đường như sau: Thương Dung bị bệnh, bệnh dường như không nhẹ. Lão Tử bèn đến thăm. Thương Dung chủ yếu nhấn mạnh 3 vấn đề với Lão Tử, một là không được quên cố hương, không được quên gốc của mình; hai là phải tôn kính bậc trưởng bối; ba là nhu nhược thắng cương cường.
Về ghi chép có liên quan đến Thương Dung thì ít nhất vẫn còn hai tài liệu lịch sử nữa. Trong Lã thị Xuân Thu- Bất nhị có ghi rằng: “Lão Đam quý nhu”, tức là tư tưởng “quý nhu”, “nhu nhược thắng cương cường” mà Lão Tử học được từ Thương Dung, do vậy trong Hoài Nam Tử – Mậu Xưng Huấn có nói rằng: “Lão Tử hoc Thương Dung, kiến thiệt nhi tri thủ nhu hĩ” (Tạm dịch: Lão Tử học Thương Dung, nhìn lưỡi mà biết giữ đức tính mềm mại, khiêm nhường)
Đến Lạc Dương cầu học
Dân gian truyền rằng sau khi Thương Dung tiên sinh dạy Lão Tử được 3 năm thì giới thiệu Lão Tử đến đô thành Lạc Dương của triều Chu để học tập. Lão Tử sau khi đến Lạc Dương thì bái kiến vị tiến sĩ mà Thương Dung đã giới thiệu, vào học ở Thái học, sau 3 năm thì có tiến bộ vượt bậc. Tiến sĩ lại giới thiệu ông làm quan ở thủ tàng thất (chức vụ tương đương với người quản lí thư viện hoặc bảo tàng lịch sử Quốc gia hiện nay). Thủ tàng thất là nơi thu thập bảo tồn sách cổ của triều Chu, tập hợp những văn thư trong thiên hạ, sách chồng như núi, không gì là không có.
Tại Thái học, Lão Tử như người trong đại hạn mong mưa, ông đọc sâu hiểu rộng, thiên văn, thư pháp, địa lí, sử thư v.v. không gì không học, thi, thư, dịch, lịch, lễ, nhạc không gì không xem, văn vật, điển chương, sách sử không gì không học. Sau đó, ông được thăng chức làm quan ở thủ tàng thư của vương thất nhà Chu, phụ trách quản lí tấu chương, hồ sơ, đồ thư cùng với tài liệu báo cáo địa phương của chính quyền trung ương.
Lão Tử trong thời gian làm quan viên ở thủ tàng thất, ông đọc rất nhiều sách vở, ông đối với những điều như sự thịnh suy của quốc gia, thành bại của chiến tranh, xem quẻ cúng tế, quan sát thiên tượng cũng rất có hứng thú. Lão Tử với kiến thức uyên bác, thông hiểu cổ kim, chú trọng đạo đức đã trở thành một người vô cùng nổi tiếng vào thời bấy giờ. Khổng Tử cũng từng vì ngưỡng mộ Lão Tử mà đặc biệt đến Lạc Dương để chào hỏi ông.
Vương thất nhà Hậu Chu xảy ra nội loạn, những sách cổ mà Lão Tử quản lí bị Vương tử Triều đem đến nước Sở, Lão Tử bị cách chức, vì vậy ông cũng đến ẩn cư tại huyện Khổ, nước Sở (nay là huyện Lộc Ấp, tỉnh Hà Nam), thời Đường tại đó vẫn còn nơi ở và miếu của Lão Tử. Trong Quát địa chí viết rằng “ Huyện Khổ nằm ngay tại nơi giao giới của hai huyện Bác Châu và Cốc Dương, còn có nơi ở và miếu của Lão Tử, trong miếu còn có 9 cái giếng”, hơn nữa câu chuyện về Lão Đam ẩn cư tại đất Sở không những được ghi chép rõ trong Sử Kí – Lão Tử Hàn Phi liệt truyện, mà còn được đề cập nhiều lần trong các tài liệu lịch sử khác vào thời Tiên Tần.
Còn có một cách nói khác, Lão Tử sau khi bị cách chức đã lựa chọn ẩn cư tại đất Bái ( nay là Giang Tô). Trong phần Thiên Vận – Trang Tử có ghi chép rằng: Khổng Tử hành niên ngũ thập hữu nhất nhi bất văn đạo, nãi Nam chi Bái kiến Lão Đam” ( tạm dịch: Khổng Tử đã 51 tuổi vẫn chưa được nghe về Đạo, thế là bèn đi đến đất Bái ở phương Nam để gặp Lão Đam). Điều này trong Kinh điển thích văn có dẫn lời giải thích của Tư Mã Bưu như sau: “ Lão Tử, người huyện Tương, nước Trần. Huyện Tương nay thuộc huyện Khổ, gần đất Bái”.
Dân gian tương truyền rằng Lão Tử tại đất Bái tự cày bừa trồng trọt để ăn qua ngày, tự dệt vải may áo. Những người ngưỡng mộ thanh danh của ông lần lượt kéo đến, để hỏi về phương pháp tu Đạo, để học hỏi kiến thức và cách đối nhân xử thế.
Truyền Đạo cho quan lệnh Doãn Hỉ
Sử Kí ghi chép, một ngày nọ, Lão Tử đến một nơi quan ải. Vị quan lệnh ở quan ải là Doãn Hỉ nói rằng: “Tử tương ẩn hĩ, cưỡng vị ngã trứ thư” (tạm dịch: Ngài chuẩn bị đi ẩn cư, xin vì tôi mà viết sách). Thế là Lão Tử liền viết sách ý nói về Đạo Đức gồm hơn 5000 chữ chia làm 2 thiên (thượng và hạ), rồi rời đi, không ai biết ông đã đi đâu Tuy nhiên, trong Sử kí không hề nhắc đến tên của quan ải đó.
Trong Lịch thế chân Tiên thể đạo thông giám thời nhà Nguyên lại ghi chép rằng: “ Thời Chu Khang Vương, Doãn Hĩ làm chức quan Đại Phu, sau khi ngẩng đầu quan sát khí tượng càn khôn thì lắng đọng tâm tư cầu đạo. Một ngày kia, ông quan sát thấy phía Đông xuất hiện sắc tím, phía Tây hiển điềm lành, dự đoán sẽ có Thánh nhân xuất hiện, vì vậy mà xin được làm quan lệnh ở ải Hàm Cốc. Gặp được Lão Tử thì bái làm thầy, thỉnh cầu chí Đạo, Lão Tử bèn viết hơn 5000 chữ bàn về Đạo và Đức truyền thụ cho Doãn Hỉ, Hỉ vui mừng tranh thủ tụng đọc,thực thi thành đạo”
Lúc này còn xảy ra một chuyện, trong Sử Kí nói rằng, có một người tên gọi là Từ Giáp, từ thuở thiếu niên được thuê làm nô bộc cho Lão Tử, Lão Tử mỗi ngày sẽ trả cho ông ta khoảng 100 tiền, vị chi tổng cộng đã nợ ông ta 720 vạn tiền công. Từ Giáp nhìn thấy Lão Tử xuất hành đi xa thì muốn nhanh chóng lấy được tiền công, nhưng lại cũng sợ không đòi được, vì vậy mà nhờ người viết cáo trạng kiện lên quan lệnh Doãn Hỉ.
Người thay Từ Giáp viết cáo trạng không hề biết rằng Từ Giáp đã theo Lão Tử hơn 200 năm rồi, chỉ biết rằng nếu ông ta đòi được tiền công từ Lão Tử thì ông ta sẽ trở thành phú ông, vì vậy mà đồng ý gả con gái của mình cho Từ Giáp. Từ Giáp nhìn thấy cô gái dung mạo vô cùng xinh đẹp thì càng vui mừng, bèn dâng cáo trạng kiện Lão Tử lên Doãn Hỉ.
Doãn Hỉ sau khi xem cáo trạng thì vô cùng kinh ngạc, liền tìm gặp và nói với Lão Tử. Lão Tử nói với Từ Giáp rằng: “Ngươi đáng lẽ ra nên chết từ lâu rồi. Ta lúc đương sơ vì chức quan nhỏ lại bần cùng, đến một người giúp ta làm việc vặt cũng không có, vì vậy mới thuê ngươi, đồng thời còn cho ngươi “Thái huyền thanh sinh phù”, ngươi nhờ đó mới có thể sống đến tận hôm nay. Người vì cớ gì lại kiện ta? Ta lúc đầu có đồng ý với ngươi, nếu tương lai ngươi có thể vào “An Tức quốc”, lúc đó ta sẽ dùng vàng để tính tiền công trả đủ cho ngươi. Ngươi nay sao lại gấp gáp không chịu tiếp tục chờ đợi như vậy chứ?”
Nói rồi bảo Từ Giáp cúi mặt xuống và mở miệng ra, chỉ nhìn thấy “ Thái huyền chân phù” ngay lập tức bị nôn ra, chữ chu sa trên phù tựa như mới viết, còn Từ Giáp thì ngay lập tức biến thành một đống xương khô.
Doãn Hỉ biết Lão Tử là Thần nhân, liền quỳ xuống khấu đầu cầu xin cho Từ Giáp, đồng thời nguyện ý thay Lão Tử trả nợ. Lão Tử liền đem “Thái huyền chân phù” ném trả lại cho Từ Giáp, Từ Giáp ngay tức khắc sống lại. Doãn Hỉ cho Từ Giáp 200 vạn tiền rồi đuổi ông ta đi.
Về phần Doãn Hỉ thì từ quan theo Lão Tử, men theo núi Chung Nam thuộc dãy Tần Lĩnh đi về hướng Tây để khai hóa Tây vực. Sau này Lão Tử lưu lại 5000 chữ cho Doãn Hỉ, Doãn Hỉ liền ghi chép lại thành Đạo Đức Kinh.mà người đời sau hay gọi. Do đó, Lão Tử được cho là ông tổ của Đạo gia. Đồng thời, Lão Tử còn đem phương thức bí mật của đạo trường sinh truyền cho Doãn Hỉ.
Bạch nhật phi thăng
Lão Tử sau khi xuất quan thì rốt cuộc đã đi đâu, điều này không có ghi chép rõ ràng. Căn cứ vào di tích tu Đạo và nghiên cứu địa phương chí, Lão Tử có khả năng vào cuối đời đã ở tại núi Nhạc Lộc, thuộc huyện Lâm Thao tỉnh Cam Túc ngày nay mà “bạch nhật phi thăng” (Bay lên trời giữa ban ngày). Đây là chỉ người tu luyện sau khi tu đắc đạo thì ban ngày bay lên thiên giới trở thành Tiên. Lúc Lão Tử cưỡi phượng hoàng bay lên mây, thân hiện kim quang, sáng rỡ vô cùng, mây ngũ sắc xuất hiện một hồi lâu. Vào ngày này, nước sông dâng cao, sông núi chấn động, trời chiếu ánh sáng ngũ sắc, sao thái vi chiếu khắp tứ phương.
Người đời sau gọi nơi Lão Tử bay lên trời là “Phi Thăng Đài”, còn gọi là “ Phượng Đài” hoặc “Siêu Nhiên Đài” để kỉ niệm. Ngoài ra, nơi Lâm Đào đến nay vẫn lưu giữ số lượng lớn những di tích tu Đạo năm đó của Lão Tử, chẳng hạn như “Thuyết Kinh Đài” nơi Lão Tử truyền Đạo v.v….Hơn nữa, Đường triều hoàng tộc Lí thị có nói trong Thị tộc chí rằng “ Lí thị thập tam vọng, Lũng Tây vi đệ nhất” (Tạm djch: họ Lí ở 13 quận vọng thì Lũng Tây đứng đầu), đồng thời tự xem mình là hậu nhân của Lão Tử, cũng bởi vì Lão Tử từng tu Đạo tại đây.
Còn về Doãn Hỉ thì hết lòng tinh tấn tu hành theo lời dạy của Lão Tử, đồng thời còn hoằng dương học thuyết Đạo gia, về sau tu Đạo thành Tiên, được gọi là “Vô thượng chân nhân”, hay “ Doãn chân nhân”.
Ngoài ra, sau khi Thần tích “khí tím xuất hiện từ phương Đông” vào lúc Lão Tử xuất quan triển hiện, thì người đời sau bèn xem “khí tím” là biểu tượng của cát tường, điềm lành.
Lão Tử truyền Đại Đạo
Tư tưởng Đại Đạo do Lão Tử lưu lại phần lớn được ghi chép trong quyển sách Lão Tử. Lão Tử tổng cộng có 81 chương, phân ra 2 thiên là thượng thiên và hạ thiên, tổng cộng có hơn 5000 chữ. Bởi vì tất cả những gì được giảng trong đó đều là những vấn đề về Đạo và Đức, do đó người đời sau còn gọi sách này là Lão Tử Đạo Đức Kinh, gọi tắt là Đạo Đức Kinh.
Vào năm 1973, khi sách lụa Lão Tử được khai quật bởi Mã Vương thì Đức Kinh thuộc phần trước, Đạo Kinh thuộc phần sau. Bản sao chép tay Đạo Đức Kinh được tìm thấy trong Đôn Hoàng tàng kinh động cũng Đức Kinh là quyển thượng, Đạo Kinh là quyển hạ. Điều này nói lên rằng người đắc Đạo nhất định phải là một người có đức, người không có đức thì không cách nào đắc đạo.
Sách Lão Tử mà hiện nay chúng ta nhìn thấy hoàn toàn không phải là nguyên tác của Lão Tử, bởi vì nó đã được thêm vào bút tích của người thời Chiến quốc, tuy nhiên tư tưởng chủ yếu bên trong nó vẫn là của Lão Tử. Phạm trù tư tưởng cơ bản của nó là “đạo”, xưa gọi là Đạo gia. Từ tư liệu hiện có thì cách gọi “Đạo gia” xuất hiện sớm nhất trong Luận lục gia yếu chỉ được viết bởi Tư Mã Đàm thời đại nhà Hán, nhưng trên thực tế, trước khi Lão Tử xuất thế và truyền 5000 chữ chân ngôn cho đời thì Thần tích và sự tích tu luyện của Đạo gia sớm đã được lưu truyền, như Hoàng Đế vấn đạo Quảng Thành Tử, Hoàng đế “Long khứ đỉnh hồ” v.v…
Hậu thế sau này có rất nhiều người chỉ xem sách Lão Tử là một bộ tác phẩm triết học vĩ đại, nhưng người thật sự hữu duyên lại hiểu rằng điều mà Lão Tử lưu lại chính là văn hóa tu luyện của Đạo gia.
Chẳng hạn trong lời mở đầu Lão Tử đã giảng: “Đạo, khả Đạo, phi thường Đạo”, Đạo của Lão tử không phải là “đạo thông thường”, mà người có đạo như ông hoàn toàn khác xa một trời một vực với người phàm tục, “ Tục nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn. Tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn. Chúng nhân giai hữu dĩ, nhi ngã độc ngoan thả bỉ. Ngã độc dị ư nhân, nhi quý thực mẫu” (người đời sáng tỏ, riêng ta tối tăm. Người đời trong trẻo riêng ta hỗn độn. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người, mà quý mẹ nuôi muôn loài (tức Đạo)).
Trong chương thứ 70, Lão Tử lại thêm một bước nữa nói rõ chỗ quý của chân Đạo: “Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành. Ngôn hữu tông, sự hữu quân. Phu duy hữu tri, thị dĩ bất ngã tri. Tri ngã giả hi, tắc ngã giả quý. Thị dĩ Thánh nhân bị hạt hoài ngọc” (Lời ta dễ biết dễ làm. Thiên hạ không biết không làm. Lời ta nói có nguyên do, việc ta có mấu chốt. Thiên hạ không biết ta. Hiếm người hiểu ta nên ta mới quý. Cho nên Thánh nhân mặc áo vải mà chứa ngọc.)
Chính vì ông không phải là “đạo” thông thường, không phải tùy tiện mà có thể cho người được đắc, vì vậy vô cùng trân quý. Mà khi đại đạo truyền xuất ra thì những người đang mê trong thế gian thái độ cũng không giống nhau, “Thượng sĩ văn đạo, cần nhi hành chi; trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi, bất tiếu bất túc dĩ vi đạo” ( Tạm dịch: Bậc thượng sĩ được nghe đạo, cố gắng cần cù theo học; bậc trung sĩ nghe đạo, có cũng được không có cũng không sao; bậc hạ sĩ nghe đạo thì cười chê, không cười thì không đủ gọi là đạo).
Để người hữu duyên có thể đắc Đạo, khiến bậc thượng sĩ cuối cùng có thể phản bổn quy chân, Lão Tử trong 5,000 chữ ít ỏi đã nói cho thế nhân biết về hàm nghĩa của “đạo” này cùng với hàng loạt những vấn đề như sự hình thành của vũ trụ, quan hệ nguồn gốc của vạn vật, làm người như thế nào và cuối cùng là làm thế nào để đạt được phản bổn quy chân v.v, mà sự trình bày về các vấn đề khác vừa vặn là để làm tiền đề cho mục đích cuối cùng kia.
Ngoài ra, Lão Tử vì để người tu Đạo hiểu được phương pháp tu Đạo, ông còn nhiều lần nói đến những Thánh nhân có “đạo” đã hành xử như thế nào khi đối mặt với các loại vấn đề, lấy điều này làm gương cho mọi người. Do đó, cùng với việc lưu lại văn hóa tu luyện Đạo gia, Đạo Đức Kinh của Lão Tử cũng bao hàm đạo của bậc Thánh nhân vương giả và đạo lí đối nhân xử thế của con người, từ góc độ của đạo đã lưu lại nội hàm văn hóa thiên nhân hợp nhất.
Do Lưu Hiểu thực hiện
Oanh Lê biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ EpochTimes Hoa ngữ