Hôn lễ truyền thống mang những ý nghĩa văn hóa nào?
Kết hôn là sự kiện trọng đại nhất trong cuộc đời mỗi người, nhưng hiện nay rất nhiều người đều không biết đám cưới truyền thống của Trung Quốc có những hình thức nào, vậy nên trong đám cưới có rất nhiều người mặc áo trắng hoặc có nhiều hình thức mới lạ. Vậy đám cưới truyền thống của Trung Quốc mang những nét văn hóa gì, hôm nay chúng tôi sẽ cùng các bạn tìm hiểu về điều đó.
Trong văn hóa Trung Quốc, mọi người rất coi trọng hôn lễ, chương đầu “Quan sư” của “Thi kinh” đã viết câu chuyện về một người đàn ông ái mộ một người phụ nữ, và trở thành chồng của cô ấy.
“Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”. Bài thơ này là nói về câu chuyện rằng: Ở bên mặt nước, có một mỹ nữ xinh đẹp thanh lịch đang hái rau hạnh, Chu Văn Vương vừa nhìn thấy nàng, liền nhất tâm muốn lấy nàng làm vợ. Người phụ nữ này là ai? Nàng là nữ nhi họ Tự (sau này gọi là Thái Tự) ở nước Tân bên kia sông Vị, là hậu duệ của Đại Vũ, cách nước Chu một con sông.
Lúc đó không có cầu, phải làm gì đây? Có người nói chuyện này chẳng đơn giản sao, chỉ cần tìm một con thuyền đưa nàng qua là được, nhưng nữ nhân này là con gái của lãnh chúa một nước lớn, gả cho nàng phải phù hợp với nghi thức và địa vị của nàng.
Chu Văn Vương cuối cùng đã nghĩ ra cách “nối thuyền làm cầu”, để cưới Thái Tự về. Với khả năng của con người lúc bấy giờ, việc dựng cầu nổi trên sông Vị là một công trình không hề nhỏ, và cuối cùng hôn lễ diễn ra vô cùng long trọng và danh giá.
Sau khi Chu Văn Vương kết hôn với Thái Tự, Thái Tự quả thực vô cùng hiền đức, trong số những người con của họ có hai người con trai rất nổi tiếng: một là Chu Công – người đã chế định ra lễ nhạc, đặt định nền văn hóa lễ nhạc hàng nghìn năm ở Trung Hoa; một người nữa là Chu Vũ Vương – người đã phạt Thương diệt Trụ, kiến lập nhà Chu, là triều đại lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thái Tự cùng Thái Khương và Thái Nhậm của nhà Chu là ba người phụ nữ được hợp xưng là “Tam thái triều Chu”. Vì vậy, người đời sau cũng thường gọi vợ là “thái thái”, chính là hy vọng rằng người phụ nữ mà họ lấy sẽ tài đức vẹn toàn như tam thái của nhà Chu vậy.
Như vậy ở đây chúng ta có thể thấy, người phụ nữ được chọn để kết hôn trước hết là người phụ nữ hiền thục và đức hạnh. Người xưa có câu “Thú tức cầu thục nữ, vật kế hậu liêm”, nghĩa là khi lấy vợ phải chọn người phụ nữ nhân hậu đức hạnh, chứ không nhìn vào sự giàu có của gia đình cô ấy. Vậy nên, việc kết hôn với một người phụ nữ như vậy cũng sẽ có một loạt các nghi thức trang trọng, đó là lễ cưới trong văn hóa Trung Quốc.
Vì sao người xưa rất coi trọng hôn nhân? Bởi vì trong “Chu Dịch” nói, có trời đất rồi mới có vạn vật, có vạn vật rồi mới có nam nữ, có nam nữ rồi mới có vợ chồng, có vợ chồng rồi mới có cha con, có cha con mới có vua tôi, có vua tôi mới có trên dưới. Như chúng ta biết, có năm loại quan hệ giữa con người với nhau trong văn hóa Trung Quốc, cũng gọi là ngũ luân. Mối quan hệ đầu tiên là phu thê, vì trước tiên có phu thê thì mới có con, và mối quan hệ cha con mới được thiết lập, sau đó mở rộng ra xã hội thành mối quan hệ giữa vua và tôi, giữa con cái thì có quan hệ huynh đệ, khi mối quan hệ huynh đệ được mở rộng ra xã hội, nó trở thành mối quan hệ bằng hữu. Vì vậy trong ngũ luân thì phu thê là mối quan hệ cơ bản nhất, cũng chính là nói mọi mối quan hệ của con người đều bắt đầu từ mối quan hệ phu thê. Do đó người xưa cho rằng hôn nhân là nền tảng của quan hệ con người và là căn bản của lễ.
Cổ nhân cho rằng hôn nhân không chỉ là chuyện của hai người, mà là chuyện của hai gia tộc, hai gia tộc kết thành thông gia. Hôn nhân là “kết hợp hai họ, trên để thờ tổ tiên, dưới để nối hậu thế”, nghĩa là sau khi hai người thành vợ thành chồng thì thờ cúng tổ tiên, sinh con nối dõi tông đường. Sau triều đại nhà Đường và nhà Tống, mỗi gia đình đều có một gia phả, tên của từng thế hệ con cháu cũng như họ tên của những người phụ nữ mà họ kết hôn đều được ghi lại, vì vậy hôn lễ là vô cùng quan trọng đối với các gia tộc. Hôn lễ truyền thống của Trung Quốc cũng mang theo rất nhiều ý nghĩa văn hóa sâu sắc.
Ngay từ hai, ba nghìn năm trước, sau khi Chu Công chế định ra Lễ, trong kết hôn đã có một bộ nghi thức cố định, gọi là “lục lễ”, bao gồm nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, thỉnh kỳ và thân nghênh.
Nghi thức đầu tiên là “nạp thái”, đó là nếu nhà trai nhìn trúng một cô gái thuộc một gia đình nào đó, thì sẽ mời người mai mối đến cầu hôn nhà gái, nói rõ hoàn cảnh, trưng cầu ý kiến. Đây không có nghĩa là của hồi môn, mà là chỉ sự lựa chọn. Gia đình nhà gái sau khi biết ý sẽ khiêm tốn nói rằng sợ rằng con gái của họ không xứng với công tử nhà các ông, nhưng cô ấy đã có thể là một trong số ít đối tượng mà các ông lựa chọn. Lễ vật nạp thái mà bên nhà trai mang đến khi hỏi mối thường sẽ có chim nhạn.
Tại sao lại chọn mang theo chim nhạn? Vì nhạn là loài chim di trú, thu đi xuân đến, không bao giờ thất tín, là hình ảnh ẩn dụ cho việc vợ chồng phải giữ chữ tín, không đánh mất lễ tiết. Nhạn cũng là loài chim di trú mà từ đầu đến cuối cuộc đời chỉ tìm một người bạn đời duy nhất, ngụ ý vợ chồng phải trung thành như thế với nhau. Ngoài ra, chim nhạn bay rất có trật tự, những con trưởng thành bay trước, những con non, già và yếu đi sau, điều này không thấy ở các loài chim di cư khác, ngụ ý rằng hôn nhân là biểu tượng của trật tự trong gia đình.
Lễ tiết thứ hai là “vấn danh”, sau khi nạp thái, người mai mối cần hỏi bên nữ họ tên của người mẹ, tổ tiên vốn sống ở đâu và từng kết thông gia với những họ nào, mục đích là để tìm hiểu xem họ có quan hệ huyết thống với nhau hay không, tránh tình trạng kết hôn cùng họ, vì việc kết hôn cùng họ sẽ khiến con cháu không được sung túc. Đồng thời, người mai mối sẽ hỏi ngày tháng năm sinh của người phụ nữ để xem có hợp với người đàn ông không.
Lễ tiết thứ ba là “nạp cát”. Nếu họ tên và ngày tháng năm sinh của hai bên hợp nhau, (chúng ta hiện nay có nơi sẽ nhờ người tra ngày tháng năm sinh của hai bên xem có tương hợp hay xung khắc không), nếu như tương hợp, nhà trai sẽ cử người đến nhà gái để báo tin, đó gọi là “nạp cát”.
Lễ tiết thứ tư là “nạp chinh”, “chinh” có ý là “thành”. “Nạp chinh” tương đương với khái niệm đính hôn thời hiện đại của chúng ta. Sau khi hôn sự được xác định, nhà trai sẽ sang nhà gái trao sính lễ. Vào thời Tiên Tần, sính lễ rất đơn giản, chỉ cần năm tấm vải lụa và hai tấm da nai, sau này những thứ sính lễ ngày càng tăng dần.
Lễ tiết thứ năm là “thỉnh kỳ”, sau khi gia đình nhà gái chấp nhận sính lễ, nhà trai phải chọn ngày kết hôn, ngày kết hôn này cũng cần được chọn thông qua bói toán. Hôn lễ là việc của cả hai bên, vì vậy sau khi chọn ngày, cần cử người đến bên nhà gái thông báo và chờ được đồng ý để thể hiện sự tôn trọng. Sứ giả của nhà trai sẽ nói: “Chúng ta nên chăng là chọn một ngày tốt lành để sắp xếp hôn lễ, xin hỏi ngày nào là thích hợp nhất?”. Đương nhiên đây là câu khách sáo, nhưng không nói sẽ trở thành thất lễ. Gia đình nhà gái cũng sẽ trả lời rằng, “Các anh đã là chọn được ngày lành tháng tốt rồi, vậy thì xin các anh quyết định đi”. Sau đó, sứ giả mới nói cho bên nhà gái biết ngày đã bói quẻ, đây là “thỉnh kỳ”, cũng chính là mời bên nhà gái xác định ngày kết hôn.
Lễ tiết thứ sáu là “thân nghênh”, tức là nghi thức nhà trai tự mình đến nghênh đón tân nương, hiện nay chúng ta gọi là “nghênh thân”, đây là nội dung chủ yếu của “lục lễ”. Sau khi tân lang đến nhà gái, bố của tân nương sẽ ra cửa đón, sau đó tân lang hành lễ với bố mẹ vợ. Cuối cùng, tân nương rời khỏi phòng và theo tân lang đến nhà trai.
Sau khi tân lang đưa tân nương về nhà, trước tiên hai người phải bái thiên địa, xin trời đất chứng giám cho cuộc hôn nhân, xin trời đất giám sát hành vi của chính mình, nếu vi phạm sẽ bị Thần linh trừng phạt; tiếp đó bái cao đường, cảm ơn công dưỡng dục của cha mẹ; sau đó phu thê giao bái, thể hiện sự ràng buộc, hai bên sẽ tôn trọng và ủng hộ nhau trong tương lai. Kết thúc buổi lễ, đại biểu cho phu thê hai người sẽ “chấp tử chi thủ, dữ tử giai lão” (nắm tay nhau đi đến đầu bạc giai lão). Trong lễ cưới vào thời Tây Chu, phu thê mỗi người còn lấy một sợi tóc trên đầu và thắt lại với nhau, gọi là “kết tóc phu thê”.
Trong hôn lễ, đôi tân lang tân nương cũng sẽ cùng nhau ăn bữa cơm đầu tiên. Thời xưa đều là chia cơm, phu thê mỗi người một phần, mỗi người ăn riêng, không ăn chung. Nhưng trong ngày cưới này, giữa tân lang và tân nương sẽ có ba món ăn chung là thịt cá, lợn sữa và thịt thỏ, gọi là “đồng lao nhi thực”, “lao” là chỉ thịt động vật. Tại sao phải ăn thức ăn giống nhau vào ngày này? Bởi vì trước đây đôi phu thê là ở trong gia đình riêng của họ, sau hôn lễ này sẽ là người một nhà, thông qua nghi thức này để thể hiện cho phu thê sau này gắn bó không có gián cách. Ở hôn lễ thời hiện đại, trong buồng tân hôn, cô dâu chú rể sẽ cắn một quả táo, cũng chính là có một chút ý nghĩa này.
Sau đó là nghi thức “hợp cẩn nhi dận”, “cẩn” chính là quả bầu được cắt ra, một quả bầu được cắt ra từ giữa và phu thê mỗi người giữ một nửa, sau khi thêm rượu vào sẽ uống cùng một lúc, gọi là “hợp cẩn nhi dận”. Tại sao lại làm như vậy? Một quả bầu được cắt từ giữa để tạo thành hai cái bầu, hai cái bầu ghép lại với nhau tạo thành một quả bầu, ngụ ý rằng phu thê tuy là hai cá thể nhưng sau khi kết hôn sẽ trở thành một thể.
Vào ngày thứ hai của đám cưới còn có lễ bái kiến cha mẹ chồng, đại biểu cho việc chấp nhận tân nương như một thành viên trong gia đình. Sau khi hoàn tất lễ tiết, vẫn còn một hành động quan trọng khi đi xuống sảnh. Vào thời xưa, cầu thang phía đông trong nhà là để chủ nhà lên xuống, cầu thang phía tây là để khách khứa lên xuống. Trước đây bố mẹ chồng với vai vế chủ nhà là lên xuống bằng cầu thang phía đông, nhưng sau khi tân nương bái kiến họ, bố mẹ chồng sẽ bước xuống bằng cầu thang khách phía tây, còn tân nương sẽ từ cầu thang phía đông đi xuống, thể hiện đã chính thức thay thế vị trí chủ gia đình, người chủ nhà từ bây giờ sẽ là tân nương. Có nơi sau khi bái kiến cha mẹ chồng, mẹ chồng sẽ giao hết chìa khóa nhà cho con dâu, con dâu sẽ trở thành chủ gia đình mới.
Lâm Phương Vũ biên tập
Xuân Hoàng biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ