Hậu quả đáng sợ vì cố chấp diệt Phật, bị phanh thây liên lụy ngũ tộc
Vào triều đại Bắc Ngụy thời Thái Vũ Đế Thác Bạt Đảo, vì xảy ra sự kiện “Quốc thư” mà dậy lên một cơn sóng gió động trời. Lúc ấy, những người chấp bút đều bị cuốn vào vòng xoáy, Tư Đồ Thôi Hạo bị tru di ngũ tộc, những người thân cận cũng bị liên lụy mất mạng. Thế nhưng, người cùng chấp bút là Trung Thư Thị lang Cao Doãn lại có thể bảo toàn tính mệnh và được trọng dụng. Vậy nguyên nhân gì khiến cho vận mệnh của họ khác nhau một trời một vực như vậy?
Thôi Hạo
Thôi Hạo, tự Bá Thâm, là hậu duệ của Thanh Hà Thôi thị, một danh gia vọng tộc ở Thanh Hà. Vào cuối thời nhà Tấn, tổ tiên của ông tránh loạn đến Lũng Hữu, rồi làm quan ở Tây Lương và Bắc Lương. Thôi Hạo bản tính nhanh nhạy, giỏi mưu đồ tính toán, từ nhỏ đã hiếu học, nghe nhiều biết rộng. Kinh sử và các trước tác của Bách gia, ông đều đọc nhiều và có hiểu biết rộng rãi, ông cũng đặc biệt yêu thích nghiên cứu thiên tượng âm dương, tinh thông nghĩa lý. Thôi Hạo với tài năng xuất chúng, người thời bấy giờ khó có ai theo kịp. Vào triều đại Bắc Ngụy, Thôi Hạo từng bước thăng quan, năm 20 tuổi đã nhậm chức Thông trực lang, rồi thăng đến chức Tư Đồ (một trong Tam công, chủ quản việc giáo hóa). Minh Nguyên Đế và Thái Vũ Đế nhà Bắc Ngụy đều rất trọng dụng ông.
Thôi Hạo có tài thao lược, ông ta tự so sánh với Trương Lương, lại tự khen hơn hẳn Trương Lương trong việc xét soát những chuyện xưa cũ. Thôi Hạo tự cho rằng lịch thư mà mình chế tác chính xác hơn so với cổ nhân, “có thể làm lợi cho quốc gia, lưu danh vạn đời, vượt qua cả Tam Hoàng, Ngũ Đế.”
Thôi Hạo yêu thích đạo thuật, không thích lời giảng của Lão Trang (Trang Tử), chê trách Phật lý là thuyết trống rỗng hoang đường. Phu nhân của ông ta là Quách thị thì một lòng hướng Phật, thường xuyên tụng đọc Kinh Phật. Bản thân Thôi Hạo không tín Phật, nhìn thấy thê tử đọc Kinh Phật liền nổi giận, hơn nữa còn đem Kinh Phật của thê tử đốt thành tro, đem vứt vào nhà xí mới dừng tay. Em trai của Thôi Hạo là Thôi Mô, là một người thành tâm tín Phật, vô cùng cung kính, hễ nhìn thấy tượng Phật đều kính lễ quỳ lạy, và thường bị Thôi Hạo chế giễu.
Minh Nguyên Đế yêu thích âm dương thuật số, lệnh cho Thôi Hạo bốc quẻ cát hung, kết quả có nhiều ứng nghiệm, nhờ đó đã đánh thắng nhiều trận. Bởi vậy, Minh Nguyên Đế đối với Thôi Hạo rất nể trọng. Bản thân Thôi Hạo không tín Phật, thường phỉ báng Phật Pháp bên tai Minh Nguyên Đế.
Vào năm Thái Bình Chân Quân thứ 6 (tức năm 445), Cái Ngô tạo phản, Quan Trung rối loạn, Thái Vũ Đế chinh phạt về phía Tây đến Trường An. Do quan lại phát hiện trong một ngôi chùa ở Trường An có vũ khí như cung, nỏ, mâu và thuẫn, Thái Vũ Đế cho rằng đây là những vũ khí mà sa môn (chỉ người xuất gia tu hành) cất giữ để thông đồng với Cái Ngô làm hại bách tính. Sau khi xem xét tài sản và sổ sách của ngôi chùa, ông phát hiện có rất nhiều dụng cụ chưng cất rượu, của cải nhà giàu gửi gắm có đến hàng vạn, còn phát hiện ngôi chùa có nhiều ám thất dùng để cùng con gái nhà giàu dâm loạn. Loại hành vi bừa bãi trái phép của những người tu hành này khiến cho Thái Vũ Đế vô cùng phẫn nộ. Lúc đó, Thôi Hạo thừa cơ góp lời kiến nghị tru sát sa môn ở Trường An và thiêu hủy tượng Phật.
Lúc ấy, thầy dạy của Thôi Hạo là Khấu Khiêm cũng có mặt ở trong đoàn, ông hết lời tranh luận và khuyên can Thôi Hạo, nhưng Thôi Hạo từ đầu đến cuối không nghe theo. Cuối cùng Khấu Khiêm phải nói lời cảnh cáo nghiêm khắc với Thôi Hạo: “Ngươi bây giờ khăng khăng cố chấp thúc đẩy diệt Phật, không đến mấy năm nữa sẽ dẫn đến báo ứng mất mạng và diệt môn!”
Thái Vũ Đế nghe theo ý kiến của Thôi Hạo, sau nửa năm đã ban chiếu lệnh tru sát sa môn và hủy hoại tượng Phật ra khắp các châu trên cả nước. Một tháng sau khi Thái Vũ Đế xa giá về đến Trường An, một tòa tháp năm tầng (trong nội thành Hàm Đan) ở Nghiệp Thành đã bị phá hủy, tạo thành kiếp nạn diệt Phật nổi tiếng trong lịch sử.
Bốn năm sau, Thôi Hạo phụng mệnh đứng đầu việc biên soạn “Quốc thư”, làm thành bộ “Quốc thư” gồm 30 quyển. Ông ta tiếp nhận lời nịnh bợ của đám Trước tác lang (chức quan viết sử) Mẫn Trạm, vung tay quá trán chi tiêu ba trăm vạn đồng, cho xây dựng một bãi đá bên cạnh đại lộ cách cung thành ba dặm về phía Đông, trên đó khắc “Quốc thư” và Ngũ kinh do ông ta chú thích để khoe khoang bút sử của mình. Khi đó, Trung thư Thị lang Cao Doãn là người cùng tham gia biên soạn “Quốc thư” biết tin, bèn nói với Trước tác lang Tông Khâm rằng, “Lời của đám Mẫn Trạm đã nói đang bay như tro bụi, chỉ sợ sẽ trở thành cái họa vạn đời của nhà họ Thôi, mà những Trước tác lang chúng ta cũng phải gặp tai ương.”
Bãi đá “Quốc thư” sau khi dựng lên, người dân Bắc Ngụy nhìn thấy sự tích thiện ác của tổ tiên đều bị tường tận viết ra hết, cảm thấy thống hận Thôi Hạo vì đã phơi bày lan truyền mặt xấu của quốc gia, như vậy là đã cấu thành tội danh, bèn thượng tấu triều đình. Kết quả, Thôi Hạo bị phán tội ngũ hình, họ hàng thân thích, quan hệ thông gia vô luận xa gần, toàn bộ đều bị diệt tộc.
Thôi Hạo bị nhốt trong cũi, trên đường đến Thành Nam bị hơn mười tên lính canh tiểu tiện, tưới khắp từ đầu đến chân. Ông ta không ngừng kêu gào, vang vọng cả con đường. Tể tướng nhục nhã bị xử tội phanh thây, Thôi Hạo là người đầu tiên trong lịch sử. Em trai Thôi Hạo là Thôi Mô may mắn thoát khỏi họa diệt môn, mọi người đều cho rằng là nhờ ông kính Phật nên nhận được phúc báo.
Cao Doãn
Lại nói, Trung thư Thị lang Cao Doãn cùng Thôi Hạo viết “Quốc thư”, vì sao ông ấy có thể may mắn thoát khỏi kiếp nạn?
Cao Doãn tự là Bá Cung, người huyện Điệu, quận Bột Hải (nay là huyện Cảnh, tỉnh Hà Bắc). Tổ phụ ông là Cao Thái từng làm Lại bộ Thượng thư, phụ thân Cao Thao làm Thừa tướng Tham quân, nhưng mất sớm. Cao Doãn từ nhỏ đã yêu thích văn học, thông hiểu kinh sử và thiên văn thuật số, học vấn uyên bác. Ông làm nghề dạy học, thiện ý dẫn dắt học trò, không quản mệt nhọc, học trò cũng vì mộ danh mà tìm đến, có đến hơn ngàn người.
Thái Vũ Đế nghe đến thanh danh của ông, bèn triệu vời ông vào cung giữ chức Trung thư Bác sĩ, rồi làm Trung thư Thị lang phụ trách Trước tác lang, đảm nhận việc biên soạn quốc sử. Đồng thời ông còn làm Thị giảng (thầy dạy) cho Thái tử (Cảnh Mục Đế), tình cảm thầy trò rất thâm sâu.
Quốc sử bất ngờ xảy ra biến loạn, khi đó Cao Doãn đang làm việc ở Trung Thư tỉnh. Thái tử bèn để ông đợi ở Đông cung, ngày hôm sau đặc biệt triệu ông nhập cung, nghĩ cách để bảo toàn tính mạng cho ông. Lúc ấy, Cao Doãn còn lơ mơ không biết đại họa đang ở trên đầu. Thái tử đặc biệt dặn dò ông: “Gặp Hoàng thượng, hết thảy đều dựa theo ta mà nói.”
Thái tử bẩm với Thái Vũ Đế: “Cao Doãn là người hết sức để tâm thận trọng, mặc dù là đồng sự của Thôi Hạo, nhưng chức vị nhỏ bé, hết thảy đều bị Thôi Hạo quản chế. Xin Thánh thượng tha tội chết cho ông ta.”
Thái Vũ Đế hỏi Cao Doãn: “‘Quốc thư’ đều là do Thôi Hạo làm, có đúng không?” Cao Doãn đáp: “Thái Tổ ký là do Trước tác lang Đặng Uyên làm, Tiên Đế ký và Kim ký là thần và Thôi Hạo cùng làm, Hạo phụ trách làm Tổng tài, về phần chú thích chú giải, thần làm nhiều hơn Hạo.”
Thái Vũ Đế giận dữ nói: “Cái này so với Thôi Hạo tội càng nặng, làm sao được sống!”
Thái tử vội vàng phân biện cho Cao Doãn: “Thánh thượng thiên uy trang nghiêm, Cao Doãn vì thế mà mê loạn nói không rõ ràng. Thần đã hỏi qua ông ta, đều nói là toàn Thôi Hạo làm.”
Thái Vũ Đế lại hỏi Cao Doãn: “Thực tình có phải như Đông Cung nói không?” Cao Doãn đáp: “Thần tội đáng diệt tộc, nay đáng tội chết, không dám nói lời giả dối xằng bậy. Vi thần làm Thị giảng cho Thái tử nhiều năm, cho nên Điện hạ thương xót, muốn xin tha mạng cho vi thần, thực tế Điện hạ chưa từng hỏi qua, vi thần cũng không có nói như vậy. Những điều vi thần nói đều là sự thật, không dám mê loạn.”
Thái Vũ Đế nói với Thái tử: “Thật là chính trực! Có thể trước cái chết mà không thay đổi, người ta khó mà làm được, hơn nữa đối với Quân vương thành thật không dám dối lừa, đúng là một bề tôi trung trinh. Trẫm thà mất đi một người có tội, cũng phải đặc xá cho ông ta.” Vì vậy, Cao Doãn may mắn được miễn tội chết.
Tiếp theo, Thái Vũ Đế cho người hỏi tội Thôi Hạo. Thôi Hạo lo sợ nghi hoặc, không thể đối đáp. Thái Vũ Đế vô cùng tức giận, liền ra lệnh cho Cao Doãn viết chiếu thư, phàm là những người dính dáng đến việc biên soạn Quốc sử, từ Thôi Hạo trở xuống, từ sai lại trở lên, tất thảy 128 người, toàn bộ bị tru di ngũ tộc. Tuy nhiên, Cao Doãn trì hoãn không nỡ hạ bút. Thái Vũ Đế liên tục hạ chiếu, thúc giục nhanh chóng. Cao Doãn lại cầu xin được bái kiến.
Khi gặp Thái Vũ Đế, Cao Doãn thưa: “Tội hình của Thôi Hạo, ngoài việc làm quốc sử ra còn có tội khác hay không, vi thần không biết. Nhưng vi thần cho rằng vì viết đúng sự thật quốc sử mà phạm tội, thì tội không đáng chết.”
Thái Vũ Đế nổi giận, ra lệnh trói Cao Doãn lại, Thái tử lại một lần nữa bái kiến thỉnh cầu tha tội cho Cao Doãn.
Lúc đó Thái Vũ Đế nói: “Không có Cao Doãn khiến trẫm nổi giận, thì sẽ có mấy nghìn người phải chết. Vậy hãy làm như thế này đi, Thôi Hạo bị diệt tộc, những người khác phán thành bản thân chịu tội chết.”
Trước tác lang Tông Khâm trước khi hành hình đã cảm thán rằng: “Cao Doãn thật là tiếp cận được cảnh giới của Thánh nhân rồi!”
Cao Doãn làm quan triều Bắc Ngụy, phò tá năm đời hoàng đế, từ Thái Vũ, Cảnh Mục, Văn Thành, Hiến Văn đến Cao Tông, ra vào Thượng thư tỉnh, Trung thư tỉnh, Mật thư tỉnh nơi trung ương hơn 50 năm, chưa từng phạm phải lỗi lầm. Ông thẩm tra xử lý công bằng các vụ án ở Bộ hình hơn 30 năm, trong ngoài triều đình đều ca ngợi ông là công bằng thỏa đáng. Khi Cao Tông đến thăm gia trạch của Cao Doãn, nhìn thấy nhà của ông chỉ là mấy gian nhà cỏ. Ông ở nhà đều chỉ mặc áo vải thô mỏng, trong bếp chỉ có muối và rau mà thôi. Cao Doãn thành tín Phật Pháp, có đức hiếu sinh, ghét sát sinh. Ông thường thiết trai cúng dường chúng tăng, giảng kinh thuyết pháp, cuối cùng thọ 98 tuổi.
Thôi Hạo và Cao Doãn cùng làm một việc, nhưng phong cách lập thân và xử sự không giống nhau, tiêu chuẩn đạo đức khác nhau, tín niệm kính ngưỡng Phật Pháp khác biệt, vận mệnh của họ cũng khác nhau một trời một vực. Thôi Hạo bởi vì chấp niệm, khiến cho vận mệnh của bản thân cuối cùng rơi vào vực thẳm.
Thôi Hạo ghi chép sự thực về các bậc đế vương, nói những chuyện được mất của quốc gia, vốn là trục chính của lịch sử, trên thực tế cũng không có vi phạm to lớn. Cao Doãn và Thôi Hạo cùng làm “Quốc thư”, chuyện sống chết vinh nhục là cùng một con đường, vì sao kết cục lại có thể khác biệt như vậy? Có lẽ ở đây, lý không nằm ở chuyện bề mặt dân chúng phẫn nộ, mà thực sự ở Đức của người ta. Thôi Hạo muốn khoe khoang thể hiện, điều hiển lộ chính là ham muốn cá nhân, đã mất đi sự trung thành liêm khiết. Ông ta lại xuất phát từ sự cố chấp yêu ghét của bản thân mà che đậy đạo lý đã rõ ràng, không phân biệt phải trái đúng sai xúi giục Hoàng đế hãm hại sa môn, làm liên lụy những người vô tội, hủy hoại chính tín, gây nên đại họa. Một Tể tướng vốn được Hoàng đế tin dùng phải chịu họa diệt môn, từ trước đến nay chưa từng có tiền lệ. Thảm kịch này chẳng phải là tấm gương cho người đời sau hay sao?
Nguồn tư liệu: “Ngụy thư”, “Bắc sử”.
Hoài Nhẫn Nhẫn thực hiện
Lý Mai biên tập
Sương Sương biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ