Hậu Nghệ – Hằng Nga các kiếp trước ra sao?
Trong mỗi dịp lễ hội Trăng Rằm, chúng ta lại mời chị Hằng xuống chung vui. Vậy vì sao trên cung trăng có chị Hằng? Dân gian có thuyết lưu truyền rằng: Chú cuội ngồi gốc cây đa, Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời, thỏ ngọc giã thuốc trường sinh, và Hằng Nga trộm tiên dược rồi bay lên cung trăng…
Luân hồi chuyển thế, hồng trần quần cuộn, ở một kiếp sống khác duyên phận giữa Hằng Nga và Hậu Nghệ có liên quan gì với nhau?
Bước ra khỏi hồng trần, kết duyên tu Đạo
Câu chuyện dưới đây kể về một đời chuyển sinh của Hằng Nga và Hậu Nghệ cách nay 3,000 năm. Hằng Nga trong kiếp sống ấy là công chúa cả của vua Thương Hiếu, còn Hậu Nghệ là vị tướng oai phong thống lĩnh đội quân 75,000 binh lính của nhà Thương.
Sau khi Hậu Nghệ và Hằng Nga kết nghĩa phu thê, vào một buổi đầu Thu, Hậu Nghệ tâm sự: “Ta ở thế gian phúc lộc đầy đủ, nhưng đời người ngắn ngủi, không thể dài lâu, thật buồn lắm thay!” Hằng Nga nói: “Phu quân là người chí lớn, sao lại nhụt chí như thế? Thiếp tuy là nữ nhân nhưng cũng biết rõ: chỉ có cách tìm Tiên nhân tu Đạo mới có thể thoát được sinh tử, trường tồn với đất trời”. Hậu Nghệ nói: “Công chúa nói rất phải, nhưng không biết Thần tiên ở nơi nào mà tìm?” Hằng Nga vì muốn giúp chồng toại nguyện, bèn trở về kinh thành hỏi Quốc sư. Quốc sư chỉ dẫn: Cầu Đạo ắt phải chân thành, đến phía Tây sẽ gặp Pháp duyên, một lòng hướng Đạo ắt sẽ thành. Từ đó, Hậu Nghệ phái gia binh đi về phía Tây để tìm Đạo, bản thân chàng cũng ngày đêm thắp hương thỉnh cầu.
Một lần, trong lúc dẫn theo 800 kỵ binh đi tuần tra, Hậu Nghệ tình cờ gặp một bậc kỳ nhân. Vị kỳ nhân có tướng mạo phi phàm, tóc bạc trắng, khuôn mặt hồng hào, hai mắt sáng rực như sao, hoàn toàn khác với người bình thường nơi thế tục. Hậu Nghệ bước tới cung kính hỏi: “Không biết Tiên nhân định đi đâu?” Kỳ nhân đưa mắt nhìn chàng và ung dung nói: “Vì sao ngươi biết ta là Thần tiên?” Hậu Nghệ cúi người đáp: “Con nhìn Tiên nhân khí độ siêu phàm, cho nên mới cả gan đến hỏi. Con có tâm hướng Đạo, nhưng khổ sở tìm Đạo mà không gặp, mong Thần tiên hóa độ!” Vị kỳ nhân trầm mặc một hồi rồi hỏi: “Ngươi là kẻ phú quý, công thành danh toại, vì sao lại cầu Đạo?” Hậu Nghệ đáp: “Đời người ngắn ngủi, không biết đi về đâu, con một lòng hướng Đạo, chỉ mong được giải thoát”. Kỳ nhân nói: “Muốn theo ta tu Đạo thì cần phải bỏ hết danh lợi và ân ái ở thế gian, vậy ngươi có làm được không?” Hậu Nghệ đáp: “Con nhất định xả bỏ mọi thứ”. Kỳ nhân nghe xong mỉm cười nói: “Ba ngày nữa hãy đợi ta ở đây, ta chính là Quảng Thành Tử!” rồi quay đầu rời đi.
Hậu Nghệ về phủ bàn giao lại chức vụ và sắp xếp ổn thỏa mọi việc. Hằng Nga lưu luyến nói với chàng: “Phu quân, lần này chàng đi không biết bao giờ mới gặp lại. Đợi đến khi phu quân tu thành Đạo, xin phu quân hóa độ!” Hậu Nghệ ưu tư trả lời: “Ta nhất định sẽ không phụ kỳ vọng của nàng…”
Hậu Nghệ cưỡi xe ngựa đi về hướng Tây, đến núi Không Động là nơi hẹn với Tiên nhân. Núi Không Động uy nghiêm hùng vĩ, rừng xanh bát ngát, núi non trùng điệp, sương mù dày đặc, mây khói lững lờ, hoàn toàn hoang sơ vắng bóng người. Sau khi Hậu Nghệ vào động tiên hành lễ bái sư, Quảng Thành Tử nói: “Môn của ta chính là kế thừa Nguyên Thủy Thiên Tôn. Pháp đại Đạo, hóa sinh vạn vật, kỳ diệu không thể diễn tả; Pháp tu Đạo, huyền diệu cao thâm, mở ra cánh cửa thần kỳ; Pháp thành Đạo, chủ tể thiên địa, ảo diệu vô cùng. Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo tuân theo tự nhiên. Tuân theo Địa pháp, đức dày tải vật; tuân theo Thiên pháp, xoay chuyển càn khôn; tuân theo Đạo pháp, tiêu dao giữa bát hoang vô cực. Đây là thể ngộ của ta, sau này ta sẽ giảng chi tiết về Đạo pháp”.
Từ đó Hậu Nghệ ngày nghe Sư phụ giảng Đạo, tối thì đả tọa thực tu, Đông qua Hạ đến, thông qua tu luyện mà hấp thu khí tinh hoa của trời đất. Cứ cách một đoạn thời gian lại phải uống một viên đan dược để tịnh hóa thân thể. Đan dược màu đỏ sậm, vị rất đắng, sau khi uống cần dẫn khí lưu thông kinh mạch. Dần dần, da dẻ chàng trở nên trắng nõn, thân thể nhẹ nhàng, có thể phiêu đãng bay lên, các loại công năng và thần thông cũng triển hiện.
Một ngày, Sư phụ Quảng Thành Tử nói: “Đạo là vật, mờ mờ ảo ảo, Đạo sinh thái cực, bao hàm vạn sự vạn vật thế gian. Trong con người có chính và tà, trong tam giới cũng có Tiên và ma, vạn vật đều tuần hoàn trong Thiên lý Đạo pháp. Khi có kẻ vi phạm Thiên ý gây họa loạn, cần có người tu Đạo thế thiên hành Đạo, duy hộ Thiên lý. Từ nay về sau, ngoài chưởng pháp và kiếm pháp, con sẽ học Thần chú. Trong ba pháp này ẩn chứa huyền cơ tạo hóa thiên địa. Ta truyền thụ cho con rất nhiều pháp môn, biết được thuật pháp cũng giống như binh khí. Lúc thi triển pháp hãy nghĩ tới quy luật nhân quả, phổ độ chúng sinh, hãy thận trọng khi sử dụng!”.
Sư phụ truyền thụ chưởng pháp, kiếm pháp và Thần chú cho Hậu Nghệ. Chưởng pháp có 6 chiêu 48 đường, khi phát công thì có thể tiêu trừ ma lực âm tà, hóa giải thành khí hỗn độn. Kiếm pháp có 9 chiêu 81 bộ, đạt đến trình độ tay không có kiếm nhưng trong tâm có kiếm, dùng kiếm vô hình diệt yêu ma; khi cầm kiếm trong tay, vận chính khí có thể chém hạ âm quỷ. Còn Thần chú lại căn cứ theo pháp ra hiệu lệnh, có thể sai khiến quỷ thần, tuân theo pháp của đất trời mà bảo vệ chúng sinh trong thiên hạ.
Hậu Nghệ ngày thì luyện chưởng pháp và kiếm pháp, đêm thì ngồi đả tọa. Năm tháng đổi thay, thời gian trôi qua, chỉ thấy trên núi bốn mùa nối tiếp nhau không ngừng.
Một hôm, Sư phụ nói: “Con có biết, con theo ta tu luyện đã bao nhiêu năm rồi không?” Hậu Nghệ đáp: “Con chưa từng tính, xin Sư phụ khai thị”. Sư phụ nói: “Đã hơn 200 năm rồi. Những năm này, đồ nhi tinh tấn không ngừng khiến ta rất hài lòng. Tuy nhiên tu Đạo còn có chỗ khiếm khuyết, con hãy xuống núi vân du, giải hết duyên trần”.
Hậu Nghệ sửa soạn hành lý, tay cầm Độn Thiên Kiếm từ biệt Sư phụ, rồi xuống núi đi về phía Đông. Trải qua mấy trăm năm, thời thế đã thay đổi, cảnh vật và người cũng không còn như xưa.
Hành sự giữa nhân gian, luyện thành Tiên dược
Bên hồ Hồng Trạch, sóng nước dập dềnh, sương khói mênh mông, lau sậy ngút mắt, Hậu Nghệ đang ngồi đả tọa trên một tảng đá bên hồ. Lúc ấy là giữa mùa hè, chim kêu hoa nở, vạn vật sinh sôi, xanh non mỡ màng. Trên bờ hồ có vài đứa trẻ đang nô đùa, một đứa trẻ đi vào vùng nước sâu, đột nhiên một con trăn khổng lồ lao tới. Hậu Nghệ lập tức bay ra cứu lấy đứa bé, đồng thời phóng kiếm khí đâm vào con trăn lớn. Con yêu quái bị thương nổi lên khỏi mặt nước, hai mắt lớn màu đỏ vàng, miệng phát ra tiếng xì xì, nói bằng ngôn ngữ của loài rắn. Hậu Nghệ lại phóng kiếm khí lần nữa, con trăn lớn sợ hãi lặn sâu xuống nước bỏ chạy mất.
Thì ra, đây là con trăn tinh ở đầm Vân Mộng, tu hành đến nay đã gần 1000 năm, nó vẫn thường hay dùng yêu pháp làm hại nhân gian. Hậu Nghệ liền dò theo yêu khí tìm đến nơi ở của nó.
Đầm Vân Mộng chu vi gần nghìn dặm, ao hồ sông suối rất nhiều, cỏ cây dày đặc, rất nhiều loài động thực vật cùng sinh sống. Đến giờ Tý, gió nổi lên, sương khói mênh mang, khu vực này là nơi hội tụ của các dãy núi, sông sâu nước cả, chằng chịt âm u, âm khí phủ đầy. Trong hang động của trăn tinh xương trắng chất thành đống, từ trong tuôn ra đầy khí âm. Hậu Nghệ vận thần thông diệt trừ yêu quái để tránh tai họa cho bách tính, trăn tinh liền hóa thành luồng khí đen tiêu tán mất. Hậu Nghệ nhặt lấy hai vật báu trên thân con yêu rồi phong kín cửa động lại.
Sau đó Hậu Nghệ lại tiếp tục vân du đến núi Tiểu Thất. Nơi đây có cây sâm vạn năm tuổi, từ trong thân cây không ngừng phát ra tiếng thở dài thăm thẳm. Hậu Nghệ đến bên cây nhân sâm, linh thể trong thân cây liền hóa thành một ông lão mày râu bạc trắng. Ông lão nói: “Tôi sống trong núi này đã vạn năm rồi, mặc dù may mắn được tham ngộ thiên cơ, nhưng tiếc là không đắc chính Đạo, quả là phí hoài vạn năm! Không biết tiên nhân có thể chỉ giáo cho tôi không?”. Hậu Nghệ bèn đưa ông lão vào trong động giảng Đạo pháp. Một hôm, ông lão nói: “Đa tạ chân nhân ban Pháp, tôi cảm tạ sâu sắc không quên. Nay tôi tuổi thọ đã tận, nguyện mang thân thể ở thế gian dâng cho chân nhân, xin chân nhân độ hóa”.
Ngày hôm sau, Hậu Nghệ theo di nguyện của ông lão, bèn nhổ cây nhân sâm lên rồi thu lượm tất cả các dược liệu cần thiết để luyện tiên đan và mang về núi Không Động.
Lúc ấy là mùa đông, tuyết rơi dày đặc, trong núi cũng bao phủ bởi lớp tuyết trắng xóa. Sư phụ Quảng Thành Tử lắng nghe câu chuyện của Hậu Nghệ rồi trầm mặc nói: “Người tu Đạo có bổn phận diệt trừ yêu ma gây họa, duy hộ thiên Đạo, có cơ duyên đắc được sâm núi vạn năm, thật đáng mừng lắm thay!”.
Hậu Nghệ lấy ra cây sâm, lại lấy ra túi mật và nội đơn của trăn tinh nghìn năm đặt trước mặt Sư phụ. Sư phụ xem xong nói: “Túi mật của yêu trăn có công dụng bài trừ tà khí, giải trừ độc tính, giúp tỉnh táo tinh thần. Còn viên nội đơn thì kết tụ linh khí của trời đất, có thể giải trừ độc tính của trăm loại côn trùng và thú vật. Sau khi dùng Đạo pháp luyện hóa thì có thể dùng linh thể ở trong đơn để hộ pháp”. Sau đó, theo hướng dẫn của Sư phụ, Hậu Nghệ lại dành 81 ngày để luyện chế cây nhân sâm thành 100 viên Cửu Chuyển Huyền Tham; lại dành 3 năm hóa luyện nội đan của trăn tinh thành pháp khí, cất vào trong hộp gỗ. Cứ như vậy, Hậu Nghệ theo Sư phụ tu Đạo, ở trong núi thanh tu, lánh xa thế gian, đạt đến cảnh giới siêu phàm thoát tục.
Gặp lại Hằng Nga, tiếp nối Đạo duyên
Vật đổi sao rời, thoáng chốc lại 200 năm trôi qua, Hậu Nghệ lại từ biệt Sư phụ xuống núi vân du. Đến Đông Hải, biển trời xanh ngắt, sóng lớn vỗ bờ, trong lòng chàng thấy vô cùng khoáng đạt. Men theo bờ biển, chàng gặp một cậu thanh niên sắc mặt xanh xao, bước đi lảo đảo. Hậu Nghệ đoán biết anh ta bị trúng độc nặng, liền đến hỏi: “Cậu có cần chữa trị không? Ta có đan dược của tiên gia, có thể trị khỏi bệnh này”. Cậu thanh niên đáp: “Tôi là Thanh Mộc – đệ tử của Thái Ất chân nhân, phụng lệnh Sư phụ đến Đông Hải Long Cung mượn pháp khí, khi quay về thì bị thủy quái làm hại nên trúng phải yêu độc. Nay may mắn gặp chân nhân ở đây, xin ngài hãy cứu giúp”. Hậu Nghệ liền lấy ra viên đan giải độc luyện chế từ nội đơn của trăn tinh nghìn năm, lại dùng trâm bạc trích máu bài độc. Thanh Mộc hồi phục, vô cùng mừng rỡ, liền cảm tạ cáo từ.
Qua một đoạn thời gian, Thanh Mộc lại đến tìm Hậu Nghệ và cung kính nói: “Gia sư Trúc Đỉnh sai Thanh Mộc mang tặng chân nhân viên tiên đan để cảm tạ ân cứu mạng. Đây là đan dược mà Tây Vương Mẫu ban thưởng trong tiên hội Dao Trì”. Hậu Nghệ thấy viên đan này thuộc về Thiên Đạo, nhưng vì chàng tu đại Đạo nên không thể dùng được, chỉ có thể cất đi.
Khi vân du đến núi Thái Sơn, Hậu Nghệ thấy nơi đây phong cảnh hùng vĩ tráng lệ, trời trong xanh, gió hây hẩy, non xanh nước biếc, mây mù ẩn hiện, quả là nơi thích hợp để tu Đạo. Chàng liền tìm một động phủ để đả tọa tĩnh tu.
Một ngày, Hậu Nghệ nghe thấy tiếng khóc xé lòng vang lên từ ngọn núi phía đông. Chàng liền bay đến đỉnh núi gần đó, chỉ thấy một cô thôn nữ vừa đi vừa nức nở, tiếng khóc vô cùng bi thương. Thấy cô gái định gieo mình xuống vực, chàng liền đến gần nhẹ nhàng nói: “Cô nương hãy khoan, ta có lời muốn nói”. Cô gái nước mắt lưng tròng, vẻ mặt đầy kinh ngạc hỏi: “Ngài là ai, vì sao lại ở đây?” Hậu Nghệ đáp: “Ta là người tu Đạo, vì nghe thấy tiếng khóc bi thiết của cô nương, nên đến đây hỏi”. Cô gái nói: “Tiểu nữ sống ở dưới núi, cha mẹ tiểu nữ vì nhận 10 lạng bạc nhà họ Triệu mà nhất quyết gả tiểu nữ cho người ta. Tiểu nữ không cam tâm nên mới tìm đến cái chết”. Nói xong cô gái bưng mặt khóc thút thít. Hậu Nghệ an ủi: “Con người sinh ra đã có số mệnh, tất cả đều có nhân duyên. Thân thể cô là do cha mẹ ban cho, cô nên vâng theo mệnh trời, nghe lời cha mẹ”. Cô gái đáp: “Tiểu nữ từ nhỏ đã ngưỡng mộ Đạo tu tiên, không muốn làm ô uế thân trong sạch. Nếu ngài là Thần tiên, xin hãy hóa độ”, nói xong lại cúi đầu hành lễ và nhắc lại: “Xin Thần tiên hóa độ!”
Trong phút chốc, Hậu Nghệ đột nhiên nhớ lại lời hứa 400 năm trước. Cô gái này tóc đen óng ả, mắt phượng mày ngài, da trắng nõn nà, ánh mắt trong veo như mặt nước mùa Thu. Thông qua thần thông, chàng nhận ra đó chính là Hằng Nga từ kiếp trước! Chàng liền nói: “Cô nương có duyên tu luyện, nhưng căn cơ chưa đủ, cần chịu nhiều khổ nạn mới có thể tu thành”. Hằng Nga tỏ ý quyết tâm: “Con xin xả thân cầu Đạo!”
Sau đó, Hậu Nghệ đưa Hằng Nga về sơn động rồi nói: “Người tu hành tất phải xả bỏ tình ái chốn hồng trần, không lưu lại dù chỉ một chút. Xả bỏ hết tâm người thường, khổ tu tinh tấn, như vậy mới có thể phản bổn quy chân, chứng ngộ Tiên Đạo”. Từ đó chàng hàng ngày giảng Đạo cho Hằng Nga, đến tối mỗi người ở một động phủ đả tọa nhập định. Hoa nở hoa tàn, Xuân qua Hạ đến, thời gian cứ thế dần trôi qua…
Hằng Nga bay lên cung trăng
Hằng Nga vẫn hàng ngày nghe Hậu Nghệ giảng Đạo, đả tọa nhập định, kết hợp với đan dược để đả khai kinh mạch. Nhờ tinh tấn không ngừng, nàng dần dần đạt đến cảnh giới Phản Phác Quy Chân, đã có thể vận dụng thông thạo pháp thuật thần thông.
Một năm vào mùa hè, Hằng Nga ra ngoài động và tình cờ gặp một sơn nữ. Người phụ nữ này đeo gùi trúc trên lưng, bên trong gùi là một bé gái 7-8 tuổi, trên ấn đường của cô bé tỏa ra khí đen, ánh mắt đờ đẫn, u ám. Từ y phục có thể đoán bà ta ở vùng dân tộc phía Tây Nam. Người phụ nữ biết Hằng Nga tu Đạo trên núi, liền vui mừng nói: “Con gái tôi bị bệnh nan y, thuốc thế gian không thể chữa được, cần phải dùng tiên đan mới có thể cứu mạng. Được vậy, tôi tất sẽ hậu tạ!”. Hằng Nga nói: “Tiên đan là của Sư phụ tôi, cần phải xin phép thì mới được dùng”. Người phụ nữ nói: “Làm phiền cô quá, tôi sẽ ở tạm bên con suối phía sau núi chờ tin vui của cô”.
Hằng Nga trở về và kể lại mọi chuyện. Hậu Nghệ thông qua pháp nhãn đã biết được sự thật. Thì ra, bà ta là là hậu duệ của Xi Vưu thuộc dân tộc man di ở phía Tây Nam, tên là Vưu Lệ Hòa, vốn là “thánh nữ” của Vu Thần giáo. Giáo phái này quy định các thánh nữ cả đời không được lấy chồng. Nhưng Vưu Lệ Hòa phạm vào sắc giới, vi phạm quy tắc của giáo phái, trúng phải lời nguyền cực độc, bà ta đã phản bội giáo phái và lưu lạc đến đây. Sau khi con gái qua đời, Vưu Lệ Hòa dùng vu pháp ép nhập vong hồn của con gái vào thân thể, rồi lại dùng tà thuật sát sinh tá mệnh mong kéo dài sự sống cho con. Bà ta đã thi triển vu pháp 38 năm, đến mức thi thể của con gái bị hóa thành cương thi, có thể đi lại trên mặt đất, thường hay ăn động vật sống và giết người hại mệnh.
Hậu Nghệ nói: “Vưu Lệ Hòa đã tu tập vu pháp hơn 200 năm, vô cùng độc ác và giảo hoạt. Cô ta tinh thông các loại tà thuật, có thể lấy mạng người trong phút chốc. Trúng độc của cô ta sẽ sống không bằng chết, đau đớn vô cùng. Vài ngày nữa ta phải quay trở về phục mệnh Sư phụ. Những ngày ta vắng mặt, con cần ở trong động đả tọa tu định chờ ta quay về. Nếu gặp nguy hiểm thì hãy niệm tên ta, dù ở đâu ta cũng biết được”.
Hậu Nghệ rời đi, còn lại Hằng Nga một mình ở trong động đả tọa hơn 100 ngày. Nhưng sau đó vì buông lơi cảnh giác, nàng bước ra khỏi động và đến bên khe suối. Nàng vừa uống một chút nước suối thì bỗng cảm thấy đầu óc choáng váng. Nàng quay về định bụng sẽ uống viên đan nhân sâm, nhưng lúc này đã nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài cửa động. Hằng Nga vừa nuốt viên tiên đan mà Tây Vương Mẫu ban cho thì cương thi con gái của Vưu Lệ Hòa nhảy đến, đồng thời âm linh do Vưu Lệ Hòa luyện thành cũng đột nhập vào động, khiến nàng cùng lúc phải vận dụng pháp lực đấu với hai tà ma. Vưu Lệ Hòa vung tay ném bột phấn độc về phía nàng, Hằng Nga trúng phải, chỉ thấy trước mắt toàn là màu đen…
Hậu Nghệ đang tu định ở núi Không Động, cảm nhận được Hằng Nga gặp nguy hiểm, liền nâng kiếm phép, vận pháp lực, xuyên vượt thời không, chỉ trong nháy mắt đã đến cửa động. Chàng hét to lên: “Yêu nhân đáng chết!”. Cả Vưu Lệ Hòa và cương thi đều thất kinh quay đầu nhìn lại. Âm linh của Vưu Lệ Hòa cũng nhảy lên không trung, chĩa móng vuốt bổ về phía trước. Hậu Nghệ vung kiếm nhằm hướng yêu nghiệt mà đến, chỉ trong chớp mắt âm linh đã bị tiêu diệt. Hậu Nghệ lại đả xuất thần thông nhắm vào huyệt bách hội của cương thi, một luồng khí đen xuất ra, cương thi lập tức ngã xuống đất. Vưu Lệ Hòa thấy thế, điên cuồng chạy đến, tay trái ném ra một nắm bột phấn độc màu đen, tay phải giơ móng vuốt hướng về phía Hậu Nghệ mà hạ thủ, nhưng hết thảy ma lực tà pháp của bà ta đều vô hiệu trước thần thông của người tu Đạo. Vưu Lệ Hòa trúng kiếm khí liền ngã xuống, miệng thổ máu tươi, Hậu Nghệ nói: “Con gái ngươi đã chết từ nhiều năm trước, vậy mà ngươi lại dùng tà thuật hòng kéo dài sinh mệnh, làm những việc trái với Thiên đạo. Hôm nay ngươi lại mưu hại người tu Đạo, việc ác chất chồng, Thiên lý bất dung. Hôm nay ta phải thay Trời hành đạo, trừ ma diệt yêu. Yêu nhân, ngươi hãy tự lo lấy đi!”. Vưu Lệ Hòa ôm lấy thi thể con gái, rồi cúi đầu chầm chậm bước đi, vừa đi vừa khóc nấc, bóng dáng tiều tụy bước xuống núi.
Hậu Nghệ trở vào động để trị thương cho Hằng Nga, chàng nói: “Con đã nuốt nhầm viên tiên đan mà Tây Vương Mẫu ban cho, Đạo duyên đời này đã hết, 7 ngày sau con sẽ bạch nhật phi thăng”. Hằng Nga nghe xong ngạc nhiên đến ngây người, nàng nói: “Vậy con nên làm thế nào?” Hậu Nghệ đáp: “Trong mệnh của con phải có kiếp nạn này, 700 năm sau con lại tiếp tục Đạo duyên với ta”. Hằng Nga thổn thức cảm thán, dần dần ngủ thiếp đi. Khi màn đêm buông xuống, Hậu Nghệ ngồi đả tọa dưới trời sao, ánh trăng trong vắt như nước, sương mù giăng giăng, tiếng chim nhạn mùa Đông bi ai thống thiết, tiếng gió ngoài cửa gào rít liên hồi…
Sáng sớm hôm sau, Hậu Nghệ nhập định nhìn thấy Vưu Lệ Hòa ngồi ở ngọn núi phía xa xa. Bà ta cởi chiếc khăn quấn đầu, rút từ ngực áo ra một chiếc lược, chầm chậm chải mái tóc hoa râm. Chỉ qua một đêm, dung mạo Vưu Lệ Hòa trở nên già nua đáng sợ, ánh mắt vẩn đục tối tăm, miệng lẩm bẩm một bài dân ca. Bài hát phảng phất hình ảnh một thiếu nữ dân tộc vùng Tây Nam, ngồi bên dòng suối trong rừng trúc, cất giọng hát cùng tiếng chim vàng anh lanh lảnh, ước mơ về tương lai. Lời bài hát rằng:
Gió mùa thu thổi, cánh hoa rơi chầm chậm, rơi xuống dòng suối;
Mưa thu bay bay, làm ướt trái tim tôi, tràn ngập lòng tôi.
Hoa rơi là nỗi lòng của gió thu, mưa thu là tâm tình của tôi.
Người tôi thương nhớ ơi, chàng giờ này ở đâu?
Người tôi thương nhớ ơi, chàng giờ này ở đâu…
Tiếng hát dần dần nhỏ lại, tay bà ta từ từ buông xuống, chiếc lược gỗ rơi xuống đất, nụ cười vĩnh viễn đọng lại trên khuôn mặt già nua. Một lúc sau, linh hồn một thiếu nữ 16, 17 tuổi bước ra từ thi thể của Vưu Lệ Hòa, ngơ ngác nhìn về phía trước. Lúc này, trước mắt cô là bầu không gian đen tối, vô số âm linh trôi nổi đang chằm chặp nhìn cô, thiếu nữ chầm chậm bước vào màn đêm u ám, càng lúc càng xa, rồi biến mất trong bóng tối mịt mờ.
Nhân sinh như giấc mộng! Có người vì tình mà si mê, điên đảo mộng tưởng, mê trong hồng trần. Thiên bất lão, tình khó tuyệt. Yêu và hận rối ren như tơ vò, đã dấn sâu vào đó rồi, làm sao thoát khỏi tình ái đây? Thật đáng thương vô cùng!
Từ sau khi uống nhầm Tiên đan, Hằng Nga cũng dần dần thay da đổi thịt, da dẻ của nàng bắt đầu tỏa ra mùi hương thoang thoảng giống như mùi gỗ đàn hương. Sau vài ngày, da thịt của Hằng Nga biến thành mịn màng như ngọc trắng Dương Chi, tinh khiết như tuyết đầu đông. Hai con ngươi tỏa ánh thần quang, sáng chói như sao giữa trời đêm. Đến đêm ngày thứ sáu, động phủ của Hằng Nga bỗng sáng như ban ngày, những tiên nữ dung mạo xinh đẹp mặc áo gấm qua lại mỉm cười. Đến giữa trưa, có ba con chim Phượng bay đến đỉnh núi, nói: “Chúc mừng chân nhân thành Đạo! Cung thỉnh Tiên nhân lên Tiên giới, chung hưởng Thiên phúc!” Sau đó Hằng Nga và các tiên nữ cưỡi gió bay lên không trung…
Sau khi Hằng Nga bay lên cung trăng, Hậu Nghệ lại tiếp tục vân du ở thế gian. Gặp sao yên vậy, luyện tâm trong hồng trần, đề cao trong tu hành, siêu thoát giữa tạo hóa thiên địa. Trải qua các khảo nghiệm nơi trần thế, cuối cùng tu thành Đạo pháp, có thể thông hành giữa trời đất, biết hết những việc quá khứ tương lai, không gì không thể làm được, cũng không gì không thể sánh được.
Trăm năm nơi phàm trần tang thương như bóng câu qua cửa sổ, nhưng ngày tháng của Thần tiên lại dài đằng đẵng. Phong vân hội tụ, chớp mắt lại mấy trăm năm nữa trôi qua. Hậu Nghệ vận Đạo pháp thần thông, thấy Hằng Nga đã giáng thế chuyển sinh ở thế gian được 7,8 năm.
Hậu Nghệ theo lời hẹn ước, đến một cửa tiệm buôn bán, thấy một bé gái mặc quần xanh áo hồng đứng trước cửa, ngước đôi mắt tròn to nhìn chàng không chớp mắt. Hậu Nghệ mở pháp nhãn nhìn bé gái, bé gái nở nụ cười vẫy bàn tay nhỏ xinh về phía chàng, miệng cười giống như vầng trăng khuyết cong cong.
Hậu Nghệ thầm nghĩ: Hằng Nga! Nàng và ta lại tiếp tục Đạo duyên…
Lời bàn:
Luân hồi chuyển thế mấy ngàn năm, gió thổi cát bay, hồng trần mờ mịt, câu chuyện trên nếu quả thực là chân thật thì cũng đã bị che mờ bởi lớp bụi thời gian. Bụi trần cuồn cuộn, nhân gian này chính là một cõi tu hành. Một sinh mệnh muốn siêu thoát khỏi thế gian làm tiên nơi thượng giới, thì đều cần tu luyện. Thuốc trường sinh hay linh đan diệu dược đều không thể biến kẻ phàm phu thành Phật, biến nhân thành Thần, mà chỉ có tu hành…
Thảo Ngọc biên tập từ chanhkien.org