Đã đến lúc kết thúc Fed và sự quản lý yếu kém của ngân hàng trung ương này đối với nền kinh tế Hoa Kỳ
Mỗi cuộc suy thoái kinh tế lớn trong 110 năm qua đều mang dấu ấn của Hệ thống Dự trữ Liên bang (Fed). Trên thực tế, kể từ khi Fed tồn tại, cơ quan này đã liên tục khiến nền kinh tế Hoa Kỳ dao động giữa trạng thái lạm phát và suy thoái. Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên là người Mỹ vẫn chấp nhận điều đó.
Nhưng chúng ta không nên mong đợi mọi chuyện sẽ tiếp diễn mãi mãi như vậy. Chúng ta đã có ba ngân hàng trung ương trước Fed, và đều đã chôn vùi mỗi từng ngân hàng này trong đống tro tàn của lịch sử. Những vấn đề cố hữu của nghiệp vụ ngân hàng trung ương cũng là nguyên nhân để loại bỏ Fed.
Nghiệp vụ ngân hàng trung ương có từ năm 1694, khi Ngân hàng Anh (Bank of England) được thành lập với mục đích tạo ra khoản thuế lạm phát ngầm để cung cấp tiền giá rẻ cho chính phủ — trên hết là cho nhiều cuộc chiến tranh ở ngoại quốc của Anh. Đổi lại, những người quản lý ngân hàng trung ương được trả lãi cao.
Giống như bất kỳ ngân hàng nào được chính phủ ưu ái, ngân hàng trung ương Anh cho vay số tiền mà họ không có, cho vay nhiều hơn số bạc trong kho của mình. Chính phủ Anh cho phép hành vi lừa đảo này vì quốc vương và Nghị viên muốn có tiền.
Nhưng trò gian lận này còn đi xa hơn nữa: Ngân hàng Anh được phép sử dụng lượng công khố phiếu mới nắm giữ để bảo đảm cho các khoản vay tư nhân, điều đó có nghĩa là tạo ra nhiều tiền hơn mà không cần có bạc để cho các ngân hàng tư nhân vay. Điều này cũng mang lại tiền lãi, mặc dù tiền được tạo ra từ con số không.
Sự bùng nổ của nguồn cung tiền đã gây ra một vụ cháy bùng phát trong nền kinh tế Anh — một thời kỳ tăng trưởng nhanh chóng nhưng ngắn ngủi, tiếp nối bằng lạm phát tràn lan và nền kinh tế sụp đổ. Chu kỳ bùng nổ-phá sản đã ra đời, một khái niệm mà ngày nay chúng ta gọi là “chu kỳ kinh doanh”.
Khi Ngân hàng Anh không có đủ bạc để đổi lấy tất cả số tiền mà ngân hàng này tạo ra, thì chính phủ Anh đã làm ra điều tương đương với một gói cứu trợ ở thế kỷ 18 bằng cách đình chỉ việc đổi chứng chỉ lấy tiền xu (vàng, bạc, v.v.), cho phép Ngân hàng Anh ngừng trả nợ bằng số bạc mà họ đã hứa.
Ngân hàng trung ương đã du nhập vào Tân Thế Giới thậm chí trước cả khi Hiến Pháp được viết ra. Ngân hàng Bắc Mỹ (Bank of North America), ngân hàng trung ương đầu tiên của chúng ta, đã làm y chang như Ngân hàng Anh và tạo ra siêu lạm phát theo Các điều khoản Hợp bang. Vào thời điểm đó, các Nhà Lập Quốc đã bãi bỏ cả Các điều khoản Hợp bang và ngân hàng này.
Nghĩ rằng ngân hàng này cần một cơ quan thay thế, Quốc hội đã thành lập Ngân hàng Đầu tiên của Hoa Kỳ (First Bank of the United States) vào năm 1791 để củng cố các loại tiền tệ và nợ khác nhau của các tiểu bang cũng như cung cấp các khoản vay ngắn hạn cho chính phủ.
Ngân hàng Đầu tiên của Hoa Kỳ bị cấm mua công khố phiếu để tránh siêu lạm phát của ngân hàng tiền nhiệm. Nhưng khi chính phủ cần thêm doanh thu, Quốc hội đã quyết định bán cổ phần của mình trong ngân hàng này, và điều lệ đã không được gia hạn. Ngân hàng trung ương đó đã lụi tàn và nền kinh tế Mỹ bùng nổ cho đến Chiến tranh Hoa Kỳ-Anh quốc năm 1812.
Để tài trợ cho cuộc chiến đó, chính phủ Hoa Kỳ đã vay rất nhiều từ các ngân hàng khu vực, từ đó tạo ra tiền từ con số không cho chính phủ. Điều đó có nghĩa là nhiều tiền giấy được lưu hành hơn số vàng bạc có trong kho ngân hàng. Khi người dân cố gắng đổi chứng chỉ của họ lấy tiền xu, các ngân hàng không có đủ tiền và nhiều ngân hàng đã phá sản.
Để bảo lãnh cho các ngân hàng, Quốc hội đã thành lập một ngân hàng trung ương khác vào năm 1816, Ngân hàng thứ Hai của Hoa Kỳ (Second Bank of The United States).
Ngân hàng thứ Hai của Hoa Kỳ đã hạn chế sự cho vay quá mức của các ngân hàng khu vực, nhưng chỉ sau khi đã khuyến khích làm điều đó. Kết quả là tình trạng nợ nần bùng nổ, theo sau là sự phá sản vào năm 1819, gây ra cuộc suy thoái đầu tiên của đất nước.
Nhiều người trong Quốc hội đã chấp nhận những đợt co thắt kinh tế dữ dội do ngân hàng trung ương gây ra vì cơ quan này cung cấp tiền cho họ chi tiêu mà không cần tăng thuế một cách công khai. Nhưng người dân không bị lừa và sẽ không chịu đựng điều đó. Họ bầu cho ông Andrew Jackson để chiến đấu với con quái vật này, và ông ấy đã bảo đảm rằng điều lệ của ngân hàng này không được gia hạn vào năm 1836.
Hành động đó đã mở ra một vài thập niên tăng trưởng kinh tế vĩ đại nhất của Hoa Kỳ.
Thời kỳ Hoàng Kim kết thúc vào năm 1907 khi sự quản lý yếu kém của các ngân hàng lớn đã gây ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng đòi hỏi nỗ lực giải cứu mạnh mẽ của J.P. Morgan and Co. Đổi lại, ông J. Pierpont Morgan muốn chính phủ chấp thuận một “ngân hàng tư nhân dành cho các chủ ngân hàng” để ứng phó với những cuộc khủng hoảng như vậy.
Những người cấp tiến trong Quốc hội đã từ chối vì, như Thượng nghị sĩ Nelson Aldrich (RR.I.) đã nói, “Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể có ông Pierpont Morgan bên mình để giải quyết cuộc khủng hoảng ngân hàng.” Và vì vậy, ngay sau khi ông Morgan từ trần vào năm 1913, các chính trị gia đã thành lập một cơ quan hoàn toàn do chính phủ điều hành để giải cứu chính phủ cũng như các ngân hàng xấu: Hệ thống Dự trữ Liên bang (Fed).
Chu kỳ bùng nổ-phá sản đã mất kiểm soát kể từ thời điểm đó.
Fed có khởi đầu đáng ngại khi mở cửa với một đợt bùng nổ lạm phát để chi trả cho Đệ nhất Thế chiến, vốn kết thúc bằng cuộc suy thoái năm 1920. Ngân hàng trung ương này cũng tạo ra một đợt bùng nổ lạm phát khác để giữ cho nước Anh tồn tại vào cuối những năm 1920, gây ra cuộc Đại Suy Thoái. Cứ năm đến 10 năm một lần trong thế kỷ trước, Fed đã tạo ra, rồi kích nổ hết bong bóng này đến bong bóng khác, mỗi lần như vậy đều khiến nhiều phần trong nền kinh tế Hoa Kỳ tổn thất nặng.
Chỉ trong vòng ba thập niên qua, lãi suất thấp của Fed đã gây ra bong bóng dot-com vào những năm 1990, sau đó là bong bóng nhà đất và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Ngày nay, có một “bong bóng cho mọi thứ” tồn tại do Fed đã in tiền một cách hoảng loạn để hối lộ cho cử tri chấp nhận phong tỏa, gây ra nguy cơ tổng hợp cho tình trạng lạm phát đình trệ của năm 1970 và sự sụp đổ ngân hàng kiểu năm 2008.
Kể từ khi thành lập, Fed đã đánh cắp 98% giá trị của đồng USD. Cơ quan này đã sử dụng những khoản lợi nhuận đó để liên tục khởi động các chu kỳ bùng nổ và phá sản và chuyển hàng ngàn tỷ USD cho chính phủ liên bang, các nhóm lợi ích đặc biệt, và những người đi vay giàu có.
Vân Du biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times