Có một Truyền Thống được gọi là Tự Do: Con Người, Thời Đại, Niềm Tin – Phần III
Cuộc Xuất Hành thời Hiện đại chạy thoát khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hành trình Mưu cầu Hạnh phúc.
Tại Trung Quốc, ý tưởng về việc người dân có quyền tư hữu tài sản chỉ là một giấc mơ; bởi vì mọi thứ phải tuân theo kế hoạch từ trung ương: từ tiến hành các hoạt động kinh tế cho đến quy định về số con trong gia đình, cuộc đàn áp tôn giáo trói buộc linh hồn thuộc về thiên thượng của con người xuống cõi trần gian phàm tục một cách không thương tiếc.
Thông qua việc gặp gỡ rất nhiều học viên Pháp Luân Đại Pháp bị bức hại bởi đức tin tại Trung Quốc, những người phải chạy thoát sang Tây phương nhằm tìm kiếm tự do, chúng tôi được biết rằng những khái niệm như quyền sở hữu, chủ nghĩa tư bản và tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoàn toàn xa lạ đối với người dân Trung Hoa. Khi được tiếp xúc với xã hội Tây phương tự do, những nạn nhân của cuộc bức hại như được làm dịu cơn khát mà họ không hề biết là họ có, bởi vì họ chỉ được biết đến chế độ nông nô từ khi sinh ra
Như chúng ta đã tìm hiểu ở Phần 1, truyền thống Thánh Kinh Tây phương đã xác định rằng tự do không phải là vô hạn mà phải đi kèm với các quy tắc đạo đức. Tại Phần 2, chúng ta biết rằng dưới danh nghĩa tự do, các cuộc nổi dậy có thể phục vụ cho chế độ nô lệ cũng như là giải phóng- điều xảy ra tương tự tại Trung Quốc trong thế kỷ qua.
Cuối cùng, chúng ta thảo luận về thách thức lớn nhất mà tự do từng đối mặt trong lịch sử: chủ nghĩa cộng sản. Điều này đã gây ra cuộc bức hại đức tin tại Trung Quốc và cuộc tị nạn sang Tây phương, nơi mà những học viên đã tìm thấy tự do, chủ nghĩa tư bản và “mưu cầu hạnh phúc”. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về những khái niệm này.
Sự trỗi dậy của Chủ nghĩa Cộng sản và cuộc bức hại Pháp Luân Đại Pháp
Thời kỳ Khai sáng bắt đầu từ những năm 1600 mở ra nhiều ý tưởng mới về chủ nghĩa duy lý, truyền thống bị xem là mê tín và bác bỏ, thiết lập nền tảng cho khoa học và những triết lý chính trị mới. Học thuyết tiến hóa vô thần của Darwin đã sinh ra “học thuyết Darwin xã hội”, Karl Marx đã dựa vào đây để đề xuất các lý thuyết về bạo lực cách mạng. Điều này đã khơi mào cho Cách mạng Bolshevik vào năm 1917 tại Nga và sau đó là Cách mạng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1948 đã hủy hoại truyền thống và trí huệ cổ xưa 5000 năm. Rất nhiều cáo buộc đã cho rằng số người bị chết bất tự nhiên dưới chế độ cộng sản này là khoảng 100 triệu người.
Sự tàn phá khủng khiếp tại Trung Quốc và đống tro tàn sau 50 năm của các cuộc vận động chính trị đã khiến người dân Trung Quốc đánh mất đức tin vào Thần và vào những điều tốt đẹp. Tôn giáo bị tiêu diệt, hết nhóm này đến nhóm khác bị thanh trừng, cho đến khi người dân trở nên sợ hãi Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), đến nỗi mọi người đã cam chịu trở thành kẻ tầm thường và đánh mất linh hồn của mình.
Điều đó đã thay đổi vào năm 1992 khi một phong trào tâm linh xuất hiện tại Trung Hoa, sau khi phong trào khí công của quốc gia (các bài tập thiền truyền thống) phổ biến sau cuộc Cách mạng Văn hóa vào những năm 1970. Rất nhiều người đã nhìn thấy những điều chân chính, tốt đẹp, cổ xưa của Trung Quốc được phát huy trong việc tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, nuôi dưỡng tinh thần tự do thiêng liêng, thoát khỏi xiềng xích thông qua các nguyên lý “Chân, Thiện và Nhẫn”. Đối lập với ĐCSTQ vô thần, Pháp Luân Đại Pháp trở nên nổi bật.
Chính sự đối lập này, và sự phổ truyền nhanh chóng (có khoảng 70 triệu người tập vào thời điểm đó) đã khiến Chủ tịch nước thời điểm đó là Giang Trạch Dân đàn áp vượt ngoài vòng pháp luật vào tháng 7/1999. Phòng 6-10 được thành lập tương tự như cơ quan mật vụ Gestapo của Hiler, nhằm nhắm đến các học viên và xóa sổ môn tập này. Các học viên bắt đầu mất tích, các chiến dịch truyền thông đã không ngừng tuyên truyền và dàn dựng các sự kiện để hạ bệ Pháp Luân Đại Pháp, khiến người dân đấu tố lẫn nhau, và các cuộc bắt bớ hàng loạt khiến nhiều gia đình tan nát.
Rất nhiều học viên, những người đã được thăng hoa tinh thần và đức tin từ Pháp Luân Đại Pháp, đã đi đến Bắc Kinh để thỉnh nguyện ôn hòa nhằm kháng cáo sự đàn áp này. Nhưng cuộc bức hại vẫn leo thang. Các học viên bị bỏ tù một cách tùy tiện, bị cưỡng bức vào các trại lao động, thậm chí bị tra tấn bằng dùi cui điện, và những hình thức tàn khốc hơn. Hàng ngàn người chết, trong khi các câu chuyện kinh hoàng về mổ cướp nội tạng nổi lên, một vài nhà điều tra quốc tế thống kê rằng khoảng hàng chục nghìn người đã bị giết theo cách tương tự như đối xử với gia súc như vậy.
Giữa cuộc bức hại nặng nề, các học viên vẫn tuân theo đức tin của họ, đáp lại bằng lòng khoan dung và bất bạo động. Không giống như những nhóm khác bị ĐCSTQ nhắm đến, các học viên từ chối khấu đầu. Sức mạnh của họ, như những tín hữu Công giáo thuở ban đầu, nằm sâu trong trái tim – không một độc tài quyền lực thế tục nào có thể tước bỏ nó. Cuộc bức hại vẫn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay.
Bỏ trốn sang nước ngoài, băng qua đại dương, rất nhiều người đã ngạc nhiên trước những gì mà tự do mang lại ở Tây phương. Được sống trong một xã hội tự do, họ đã nhận ra họ bị ĐCSTQ lừa bịp và chối bỏ những quyền con người cơ bản nhất – các quyền tự nhiên – quyền được phát triển thịnh vượng, sở hữu tài sản và mưu cầu hạnh phúc.
Bài báo này tiếp tục nghiên cứu nền tảng của các truyền thống Mỹ được nhắc đến, không phải chỉ vì lợi ích của những người chạy trốn từ Đông phương mà còn cho giới trẻ Tây phương của chúng ta, thậm chí cả chính chúng ta, những người được nuôi dưỡng và giáo dục trong một hệ thống đang sụp đổ và bại hoại. Rất ít người giải thích cho luận cứ của họ bằng cách rút ra bản chất vấn đề từ hai quan điểm rất khác nhau nhưng giống nhau về nhiều mặt, như luật sư thế kỷ 18 John Locke và nhà kinh tế học từng đoạt giải Nobel Friedrich Hayek.
“Mưu cầu Hạnh phúc”: Quyền tự nhiên về tài sản Ala John Locke
Trong thời kỳ Khai Sáng, thời đại mà các truyền thống đều đang bị hoài nghi, luật sư John Locke (1632 đến 1704) đã tìm được lý luận để chứng minh tính đúng đắn của những truyền thống tự do, và gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến các Tổ phụ Lập quốc Hoa Kỳ. Học thuyết của John Locke về “Quyền Sống, Quyền Tự do và Quyền Sở hữu tài sản” đã được cố tổng thống Thomas Jefferson tiếp thu và đưa vào Bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ. Nhưng, như một người thợ sửa chữa lành nghề, khái niệm “Mưu cầu Hạnh phúc” đầy chất thơ của Jefferson thực chất chính là “Quyền sở hữu tài sản” mà Locke đã nhắc đến.
Ngài Jefferson và Locke cùng có quan điểm rằng tất cả mọi người đều được Tạo hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm. Bị cuốn hút bởi xu hướng nhạy cảm, Locke đã chọn “quy luật tự nhiên” thay vì các quy luật “do Chúa ban tặng” hoặc “được mặc khải”. Nói về quyền, ông đã đặt ra “quyền tự nhiên”.
Nhằm tìm kiếm cơ sở cho quyền sở hữu tự nhiên về tài sản, Locke đã tham khảo hình thái của xã hội nguyên thủy trước khi hình thành cộng đồng. Học thuyết của Locke lý luận rằng, con người, trong “trạng thái tự nhiên” “được hoàn toàn tự do định đoạt hành vi và tài sản của họ, bằng bất cứ cách nào họ muốn, mà không cần sự cho phép của người khác – họ chỉ bị giới hạn bởi các quy luật tự nhiên…và không phải chịu sự phục tùng hoặc phụ thuộc vào bất kỳ ai khác.”
Ông đã viện dẫn khái niệm về một thế giới và tất cả các tài nguyên liên quan, được thiên thượng chủ đích ban cho loài người để sinh tồn và phát triển:
Liệu chúng ta có xem xét đến một lý luận tự nhiên, vốn cho chúng ta biết rằng, con người, một khi được sinh ra, có quyền sinh tồn, do đó thịt và thức uống và những thứ khác mà tự nhiên đã ban tặng là để nuôi sống họ: hoặc sách Khải Huyền, kể về những món quà mà Đức Chúa Trời đã ban thế giới cho Adam, cho Noah, và các con trai của ông. Rõ ràng là, Đức Chúa Trời… đã ban trái đất cho tất cả con cái của loài người, trao tặng chúng cho nhân loại nói chung…Nhưng tôi sẽ cố gắng giải thích, làm thế nào chúng ta có thể có được phần tài sản riêng trong khối tài sản chung mà Đức Chúa Trời đã ban tặng cho nhân loại, và điều đó không có bất kỳ sự đồng thuận rõ ràng nào của tất cả mọi người.
Ngài Locke bổ sung rằng:
Thượng Đế, Đấng toàn năng đã ban cả thế giới cho loài người nói chung, cũng ban cho họ lý do để tận dụng nó nhằm phục vụ tốt nhất cho cuộc sống và sự tiện nghi. Trái Đất mà Đức Chúa Trời ban cho, cũng như mọi thứ trong đó, là để trợ giúp và cung dưỡng loài người.
Khái niệm này có vẻ trái ngược với hành vi cướp đoạt đất đai của toàn dân mà ĐCSTQ thực hiện. ĐCSTQ dường như sẵn sàng thay thế Thượng Đế để phân phối lại các nguồn lực này khi nó thấy phù hợp.
Trong học thuyết của mình, Locke đã chỉ rõ phương thức mà một người có được quyền sở hữu và tài sản thích hợp, trong trạng thái tự nhiên nơi mà mọi thứ bắt đầu đều là tài sản chung:
Anh ta được nuôi dưỡng từ quả hạt anh hái trên cây sồi, hay từ những trái táo anh hái được trong rừng, hiển nhiên mọi thứ đều dành cho anh ấy. Không ai có thể phủ nhận nguồn cung dưỡng đó vốn dành cho anh. Vậy tôi xin hỏi, nó trở thành sở hữu riêng của anh ấy từ khi nào? Có phải khi anh tiêu hóa chúng? Hay là lúc anh ăn vào? Hay từ lúc anh đun sôi chúng lên? Hay là khi anh hái chúng? Rõ ràng là, chính lúc thu hái đầu tiên đã đánh dấu mốc cho thời điểm xác lập quyền sở hữu riêng của anh. Chính sức lao động đã vạch rõ ranh giới giữa sở hữu chung và sở hữu riêng: điều này đã ban cho họ một cái gì đó hơn cả tự nhiên, mẹ chung của tất cả đã làm thế. Và vì thế những thu hoạch có được trở thành tài sản riêng của anh. Làm sao chúng ta có thể nói rằng anh không có quyền gì đối với những quả hạt hay những trái táo mà anh ta mình kiếm được, chỉ vì điều đó không được toàn thể nhân loại ưng thuận?
Ông nói thêm:
Chúng ta có thể nói rằng, sức lao động từ thân thể và kết quả từ đôi tay của anh hoàn toàn thuộc về sở hữu của anh. Vậy nên, khi anh ta bằng sức lao động của mình lấy một điều gì đó từ tài nguyên thiên nhiên ban đầu, kết hợp nó thành một cái gì đó của riêng anh, theo cách đó anh ta biến nó thành tài sản của mình.
Chúng ta làm chủ sức lao động của mình. Bằng việc kết hợp sức lao động và sử dụng các tài nguyên, chúng ta được hưởng một số quyền sở hữu trên thành quả lao động đó. Điều này không đúng ở xã hội Trung Quốc, nơi mà ĐCSTQ đồng bộ hóa tất cả sản phẩm lao động và phần ít ỏi còn lại được phân phát cho người dân để họ sống ở mức vừa đủ sinh tồn. Điều này đã nhấn chìm người dân vào nạn đói tàn khốc ở khắp mọi miền đất nước và sinh ra nạn tham nhũng. Người lao động được trả những đồng lương rẻ mạt so với chuẩn mực của Tây phương.
Ngài Locke nêu ra quan điểm về đất đai:
Nhưng vấn đề chủ chốt của quyền sở hữu không phải là hoa mầu trên trái đất, hay dựa vào các loại thú để kiếm ăn, mà chính là đất đai; vì trên đất này một người có thể bằng việc xới đất, trồng trọt, cải tạo, canh tác mà tạo ra nông sản, thì phần lớn đó là tài sản của anh ta. Bằng sức lao động của mình, anh ta đã tách phần tài sản ấy ra khỏi cái chung. Anh tuân theo sự uỷ thác của Đức Chúa Trời, đã chinh phục, xới đất và gieo vào bất kỳ phần nào của đất, qua đó sáp nhập vào đất này thứ tài sản của mình, mà người khác không có quyền đòi hỏi, cũng không thể lấy ra khỏi anh mà không bị anh đả thương.
Do đó, việc ĐCSTQ thôn tính toàn bộ đất đai kể từ năm 1953 đã gây ra nhiều sự bất công nghiêm trọng đối với các chủ đất. Có khoảng 2 triệu người đã bị sát hại trong quá trình chiếm đoạt đất đai này. Các biện pháp khắc phục hậu quả dường như đã quá muộn màng cho những thương vong khủng khiếp mà người dân phải chịu đựng. Học thuyết của Locke chỉ ra quyền cơ bản mà những nông nô nghèo khổ dưới sự cai trị của ĐCSTQ vốn có được, rằng họ có thể tuyên bố quyền sở hữu cho những gì thuộc về họ một cách chính đáng.
Trong cuốn sách “Khảo luận thứ hai về Chính quyền”, Locke đã trình bày rõ về quyền tự nhiên của người dân để thành lập, thay đổi hoặc giải tán chính quyền theo ý chí của họ. Theo khế ước ban đầu, chính quyền được lập ra nhằm để bảo vệ quyền lợi của người dân. Không thực hiện được chức năng này, khế ước trở nên vô hiệu. Điều đó mang lại một chút an ủi cho những sinh viên đã đổ máu trên Quảng trường Thiên An Môn đấu tranh cho dân chủ vào năm 1989; hay là những người biểu tình Hong Kong chống lại sự cướp đoạt tự do trắng trợn từ ĐCSTQ vào năm 2019, đã sử dụng ô để che chắn bản thân khỏi hơi cay và đạn cao su.
Nhưng chúng ta sẽ bàn nó vào một dịp khác.
Giấc mơ Mỹ: Chủ nghĩa Tư bản được giải thích bởi Friedrich Hayek
Ba thế kỷ sau khi Locke viết các chuyên luận của mình, nhà kinh tế học người Áo Friedrich Hayek (1899 đến 1992) đã lật ngược tình thế của “những người theo chủ nghĩa duy lý” thời kỳ Khai sáng, những người mở đường cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, điều đã phá hủy văn hóa truyền thống và cả nền tự do. Ông đã ủng hộ chủ nghĩa tư bản và tự do, nền tảng sơ đẳng nhất của giấc mơ Mỹ.
Cuộc cách mạng khoa học khiến nhiều người nghi ngờ và chất vấn các truyền thống xưa (đặc biệt là trong tôn giáo) về tính đúng đắn, hợp lý của nó. Nếu không chứng minh được điều này, các truyền thống liền bị phê phán là mê tín dị đoan. Nhà khoa học Descartes vào năm 1637 với tuyên bố “Tôi tư duy nên tôi tồn tại” đã khởi động phong trào phê phán truyền thống này; những người Cartersian (được đặt theo tên của nhà tư tưởng người Pháp), những người theo chủ nghĩa duy lý mang theo “sự tự phụ chết người” dẫn đến “những sai lầm của chủ nghĩa xã hội” như Hayek mô tả trong cuốn sách của ông. Ông đã viết về sự ngạo mạn này như sau:
Vì vậy, tôi thú nhận rằng tôi luôn phải mỉm cười khi những cuốn sách về sự tiến hóa thường kết thúc với những lời hô hào kêu gọi lý trí của con người, trong khi thừa nhận rằng mọi thứ cho đến nay đã phát triển bởi trật tự tự nhiên, kể cả cả những cuốn sách do các nhà khoa học vĩ đại viết – bây giờ mọi thứ đã trở nên quá phức tạp để kìm lại và kiểm soát sự phát triển trong tương lai. Những mộng tưởng hão huyền như vậy được khuyến khích bởi cái gọi là ‘chủ nghĩa duy lý kiến tạo’…
Những giả thuyết này bao gồm quan điểm phi khoa học, thậm chí là quan điểm vạn vật hữu linh, rằng vào một thời điểm nào đó, trí óc hoặc linh hồn có lý trí của con người đã nhập vào cơ thể người đang tiến hóa và trở thành một chỉ dẫn mới, tích cực cho sự phát triển văn hóa hơn nữa (thay vì cho rằng, qua những trải nghiệm thực tế, người này dần dần có được khả năng tiếp thu các nguyên tắc vô cùng phức tạp và từ đó phát triển hơn trong môi trường của mình.)
Cũng như Locke, Hayek đã tìm kiếm câu trả lời từ lời dạy của các bậc tiền nhân. Dựa trên nhân chủng học thay vì các thí nghiệm suy luận, ông chỉ ra rằng nền văn minh rộng lớn không được hình thành trên nền tảng duy lý, không phải lợi tức của nó “hoàn toàn được công nhận trước” cũng như nguyên nhân khởi đầu của nó “hoàn toàn có thể quan sát được và được coi là tốt”. Thậm chí là ngược lại, ông phát hiện rằng những người đơn thuần nhắm đến sự thưởng thụ sẽ bị lất át bởi những người chỉ muốn gìn giữ đời sống tâm hồn của họ”.
Loài người thuở sơ khai sống thành các nhóm nhỏ lang thang khắp nơi, bám theo “bản năng” bộ lạc, điều chỉnh các hành vi xã hội khi các mạng lưới thương mại mở rộng thành các trật tự văn minh lớn hơn – nền tảng cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay. Các nhóm nhỏ muốn sinh tồn phải tuân theo các quy tắc mang tính “đạo đức” và “truyền thống” phù hợp với giao thương và tương tác xã hội. Khi xã hội thay đổi, họ sẽ phải tuân theo điều đó, hoặc sẽ bị bỏ lại phía sau.
Cũng như Locke, Hayek đã khám phá ra rằng quyền tự do và quyền tư hữu tài sản là những điều cốt lõi cho việc điều chỉnh hành vi này:
Chúng ta đã biết rằng, vùng Địa Trung Hải là nơi đầu tiên công nhận quyền định đoạt của một cá nhân đối với vùng đất thuộc sở hữu riêng, do đó cho phép các cá nhân phát triển mạng lưới giao thương dày đặc giữa các cộng đồng khác nhau. Bởi vì những hoạt động của thương nhân hàng hải hiếm khi có thể được tập trung vào thời đó, một mạng lưới như vậy hoạt động độc lập với ý kiến và nguyện vọng của lãnh đạo địa phương.
Tài sản là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển của giao dịch, và do đó để hình thành các cấu trúc hợp tác và gắn kết lớn hơn, và sự xuất hiện của những tín hiệu đó chúng tôi gọi là giá cả.
Ông viết: Khác xa với quan niệm duy lý về “những mục đích có lợi đã biết”, những đặc điểm “phi lý trí” này “hẳn phải đi kèm với sự gián đoạn đáng kể của các bộ lạc sơ khai”. Công nhận quyền tư hữu tài sản và “những thông lệ chưa từng nghe thấy trước đây” là điều cần thiết đối với cộng đồng để “cho phép các thành viên mang đi cho người lạ sử dụng… những vật phẩm có giá trị được lưu giữ trong cộng đồng mà nếu không thì có thể được sử dụng cho mục đích chung của địa phương.” Điều đó tương tự với tuyên bố trước đây của David Hume: “Các quy tắc đạo đức vốn không dựa trên lý trí con người.”
Ngài Hayek khẳng định:
Chính việc bảo vệ quyền tài sản, mà không phải bảo vệ các mệnh lệnh từ chính quyền, đã đặt nền móng cho các mạng lưới trao đổi dịch vụ trở nên lớn mạnh và thiết lập các trật tự mở rộng.
Vì vậy, không có gì sai lầm hơn lối nghĩ thông thường của các nhà sử học, những người đại diện cho thành tựu đỉnh cao của sự tiến hóa văn hóa của một nhà nước hùng mạnh: thường là khi đó nó cũng tới thời điểm đánh dấu chấm hết cho mình.
Tác giả đã viết rằng, cần dựa vào truyền thống nhiều hơn để quản lý xã hội ở cấp độ vĩ mô này, bao gồm: “lòng hiếu khách, sự bảo vệ, đảm bảo an toàn”, và “sự trung thực, hợp đồng, trao đổi, thương mại, cạnh tranh, lợi ích và quyền riêng tư”.
Việc quản lý ở cấp độ vĩ mô sẽ đưa đến kết quả như thế nào? Sự thịnh vượng và năng suất chưa từng có, các tiến bộ về công nghệ phát triển theo cấp số nhân, nền văn minh đảm bảo cho sự sinh tồn và giàu có. Hayek đã viết rằng:
Phản ứng dây chuyền bắt đầu từ đây: mật độ dân số lớn hơn, dẫn đến chuyên môn hóa và sự phân chia lao động, dẫn đến thu nhập bình quân đầu người tăng hơn nữa, cho phép dân số có thể tiếp tục tăng thêm. Và cứ tiếp tục như thế
Theo Hayek, chìa khóa cho sự tăng trưởng này là sự lan truyền thông tin – một khía cạnh của quyền tự do; các cá nhân được quyền tự do định đoạt đối với phạm vi đất đai mà họ có quyền tự quyết. Lợi nhuận chính là động lực thúc đẩy năng suất và hiệu quả làm việc. Trong khi đó, ở các nước cộng sản thì không như vậy. Các kế hoạch trung ương của chính quyền cộng sản trên thực tế phá hủy tất cả những thông tin quan trọng đó; cũng không bao giờ để chúng được hiểu quá nhiều. Hayek chú giải rằng, chính Adam Smith là người xác định tự do cá nhân là chìa khóa cho sự phát triển:
Loại ngành công nghiệp trong nước mà vốn của anh ta có thể sử dụng là gì, và sản phẩm nào có khả năng có giá trị lớn nhất, hiển nhiên rằng mỗi cá nhân trong chính hoàn cảnh sống của mình sẽ đưa ra đánh giá đúng đắn hơn bất kỳ chính khách hoặc nhà lập pháp nào.
Hayek đã chỉ ra, ĐCSTQ tự đánh đổ nền văn minh của mình khi cướp đi của người dân sự tự do và động lực phát triển, và nhận được kết quả ngược lại:
Nếu các trật tự tự nhiên có điểm nào khiếm khuyết hoặc kém hiệu quả, thì đó là kết quả của những nỗ lực can thiệp, ngăn chặn các cơ chế đó được vận hành, cải thiện tốt hơn…Giả vờ là những người yêu tự do, ĐCSTQ lên án, chỉ trích các hình thức khác nhau về quyền sở hữu tài sản, hợp đồng, cạnh tranh, quảng cáo, lợi nhuận, và thậm chí là tiền bạc. Nó đặt ra một mối đe dọa lớn đối với nền văn minh bằng cách tin rằng lý trí của nó có thể phân bổ cách tổ chức các hoạt động của con người tốt hơn nhằm thực hiện những mong muốn tự nhiên của nó.
Nhà kinh tế học này nói thêm:
Tôi cũng khẳng định rằng, những trật tự mở rộng như vậy sẽ sụp đổ, phần lớn dân số sẽ chịu đựng thống khổ và chết chóc, nếu những phong trào như vậy thành công trong việc thay thế thị trường.
Tương tự như vậy, các quốc gia cộng sản như Venezuela và Cuba gần đây phải đối diện với tình trạng thiếu hụt lương thực và các cuộc nổi dậy; chúng ta cũng biết rằng khoảng 3,9 triệu người dân Ukraine đã thiệt mạng vì nạn đói dưới những chính sách kinh tế tập trung của Stalin.
Điều làm nên vẻ đẹp của tự do và Giấc mơ Mỹ không phải là những bản năng thiện ý của bộ lạc – chủ nghĩa vị tha, chia sẻ, phân phối bình đẳng, tính liên đới – mà đơn giản bằng cách tuân theo các truyền thống của tự do: quyền sở hữu tài sản; làm việc chăm chỉ để kiếm sống, nuôi sống bản thân và những người thân yêu; và sử dụng bất cứ thứ gì kiếm được thêm nhằm thỏa mãn những mong muốn bản năng để làm điều tốt.. Ngành công nghiệp phát triển, tạo cơ hội việc làm và sự thịnh vượng. Các sản phẩm làm ra đáp ứng đủ mọi nhu cầu. Một cách tự nhiên, những người khác được hưởng lợi.
Trường An biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times