An Dương Vương Thục Phán (Phần 2): Đắp thành Cổ Loa, nỏ thần giữ nước
Sau khi phần lớn các tiểu quốc dần dà bị nhà Tần thôn tính, cuối cùng chỉ còn lại nhà Âu Lạc vẫn còn giữ được độc lập sau nhiều năm chiến đấu. Khi nhà Tần sụp đổ, hào kiệt Trung Nguyên các nơi nổi lên, trong đó có Triệu Đà thừa thế mở rộng lãnh thổ và thành lập ra nước Nam Việt. Ngay cả khi nhà Hán đã thống nhất thì vẫn chưa thể tiến vào miền Nam do thế lực Nam Việt còn mạnh.
“Sau khi Hán Cao Đế bình định được thiên hạ, thấy Trung Quốc mới khổ nhục, cực nhọc, nên tha Đà không trị tội. Năm thứ 11 (năm 196 trước Công nguyên), Hán sai Lục Giả sang, nhân tiện phong cho Đà làm Nam Việt Vương, chặt phù để làm tin, cho phép phái sứ giả đi lại với Trung Quốc, bảo phải hòa hợp với Bách Việt, không được gây việc lo ngại ở biên giới phía Nam.” (Sử ký)
Nước Âu Lạc của An Dương Vương giáp giới với nước Nam Việt nên tình thế vô cùng nguy hiểm, luôn phải cảnh giác và tự thân vận động bảo vệ chính mình. Là một vị vua anh minh và thừa kế văn minh thần truyền, An Dương Vương được nhiều nhân tài và cả Thần trợ giúp để có thể bảo vệ quốc gia. Đó chính là câu chuyện truyền kỳ về thành Cổ Loa và nỏ thần còn lưu lại đến nay.
Thành trì của vua ở là nơi quy tụ linh khí của quốc gia, cộng với sự bảo hộ của long tộc đối với hoàng gia sẽ hình thành một nền tảng để duy trì vương quyền. Đó là cái gọi là khí số của triều đại, hay tính chính thống của người cai trị. Thành Cổ Loa là một thần tích vĩ đại cuối cùng triển hiện trên đất Văn Lang.
Tương truyền rằng An Dương Vương xây thành mãi không xong, cứ xây xong là thành đổ, chỉ đến khi được Thần chỉ bảo và cử sứ giả đến giúp mới xây nên.
“Vua An Dương Vương nước Âu Lạc là người Ba Thục, họ Thục tên Phán. Nhân vì tổ phụ ngày trước cầu hôn lấy Mỵ Nương là con gái vua Hùng Vương, Hùng Vương không gả cho, bèn mang oán. Phán muốn hoàn thành chí người trước, cử binh đi đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải tên nước thành Âu Lạc, rồi lên làm vua, xây thành ở đất Việt Thường, hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy.
Vua bèn lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mồng 7 tháng 3 bỗng thấy một cụ già từ phương Đông tới trước cửa thành mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”
Vua mừng rỡ đón vào trong điện, thi lễ, hỏi rằng: “Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tổn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?” Cụ già đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng mới thành công”, nói xong từ biệt ra về.
Hôm sau vua ra cửa Đông chờ đợi, chợt thấy một con rùa vàng từ phương Đông lại, nổi trên mặt nước, nói sõi tiếng người, tự xưng là sứ giả Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Vua mừng rỡ nói: “Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết trước”. Bèn rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi vì sao xây thành không được.
Rùa vàng đáp: “Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước, muốn báo thù cho nước. Lại có con gà trống sống ngàn năm, hóa thành yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu. Trong núi có ma, đó là hồn người nhạc công triều đại trước chôn ở đây. Ở bên cạnh, có một quán trọ cho khách vãng lai, chủ quán tên là Ngộ Không, có một người con gái và một con gà vốn là dư khí của quỷ tinh, phàm có khách qua đường nghỉ đêm ở quán thì quỷ tinh lại biến hóa muôn hình vạn trạng để làm hại. Người chết vì thế rất nhiều. Nay con gà trống trắng lại lấy con gái chủ quán, nếu giết được con gà trống thì trấn áp được quỷ tinh, qủy tinh sẽ tụ âm khí thành yêu, hóa ra con chim cú ngậm lá thư bay lên trên cây chiên đàn tâu cùng Thượng Đế xin phá thành. Thần sẽ xin cắn rơi lá thư, nhà vua tức tốc lặt lấy, thành sẽ xây được”.
Rùa vàng bảo vua giả làm kẻ hành nhân nghỉ trọ ở quán, để rùa vàng ở phía trên khung cửa. Ngộ Không nói: “Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người. Hôm nay trời chưa tối, xin ngài đi mau chớ nghỉ lại”.
Vua cười, nói: “Sống chết có mệnh, ma quỷ làm gì được, ta không sợ”. Bèn cứ nghỉ lại. Đến đêm, quỷ ở ngoài vào, thét lớn: “Kẻ nào ở đây, sao chẳng mau mở cửa?” Rùa vàng hét: “Cứ đóng cửa thì mày làm gì?”. Quỷ bèn biến hóa trăm hình vạn trạng, muôn kế nghìn phương để hòng dọa nạt, sau cùng cũng chẳng nổi . Đến lúc gà gáy sáng, quỷ tinh tẩu tán. Rùa vàng cùng vua đuổi theo, tới núi Thất Diệu, quỷ tinh thu hình biến mất. Vua bèn quay về quán. Sáng hôm sau, chủ quán sai người đến lượm xác khách trọ để chôn, thấy vua vẫn cười nói hớn hở, bèn cùng chạy tới lạy mà nói rằng: “Ngài được như thế tất là thánh nhân, vậy xin ban thuốc thần để cứu sinh dân”.
Vua nói: “Nhà ngươi giết con gà trắng mà tế thần, quỷ tinh sẽ tan hết”.Ngộ Không y lời, đem gà trắng ra giết, người con gái lập tức quay ra chết.
Vua bèn sai đào ở núi Thất Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương cốt, đốt tan thành tro đem đổ xuống dòng sông. Trời gần tối, vua và rùa vàng lên núi Việt Thường thấy quỷ tinh đã biến thành con chim cú sáu chân, ngậm lá thư bay lên cây chiên đàn, rùa vàng biến thành con chuột đen theo sau, cắn vào chân cú, lá thư rơi xuống đất, vua vội nhặt lấy, lá thư đã bị nhấm rách quá nửa. Từ đó quỷ tinh bị diệt. Thành xây nửa tháng thì xong . Thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành, còn gọi là Tư Long thành, người đời Đường gọi là Côn Lôn thành, lấy lẽ rằng nó cao lắm.
Rùa vàng ở lại ba năm, rồi từ biệt ra về. Vua cảm tạ nói: “Nhờ ơn của Thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”.
Rùa vàng đáp: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, vua có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Song vua ước muốn, ta có tiếc chi”. Bèn tháo vuốt đưa cho nhà vua mà nói: “Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”. Dứt lời, trở về biển Đông. Vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt làm nẫy. Gọi là Linh Quang Kim Quá thần cơ. Về sau Triệu Vương là Đà cử binh nam xâm, cùng vua giao chiến. Vua lấy nỏ Thần ra bắn, quân Đà thua lớn, chạy về Trâu Sơn cầm cự với nhà vua, không dám đối chiến, bèn xin hòa. Vua cả mừng, hẹn rằng phía Bắc sông Tiểu Giang thuộc Triệu Đà cai trị, phía Nam thì vua cai trị.” (Lĩnh Nam Chích Quái)
Nỏ thần bị hủy, ngàn năm mất nước
Dẫu cho An Dương Vương là quân chủ kế thừa của Hùng Vương, bản thân ông cũng là người cai trị nhân đức và tài giỏi. Nhưng khí số quân chủ của dân tộc Văn Lang sau 2600 năm đã tận, rốt cục ông cũng trúng kế mà dẫn đến nước mất nhà tan, khởi đầu cho nghìn năm đen tối khốn cùng của dân tộc. Câu chuyện tình ai oán Mỵ Châu Trọng Thủy là huyền sử đẫm máu nói về đoạn sử bi thương này.
“Không bao lâu, Đà cầu hôn. Vua vô tình gả con gái là Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ Thần rồi ngầm làm một cái lẫy nỏ khác thay vuốt rùa vàng, nói dối là về phương Bắc thăm cha. Nói rằng: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc – Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?”.
Đáp: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì đau đớn khôn xiết, thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”.
Trọng Thủy mang lẫy thần về nước. Đà được lẫy cả mừng, bèn cử binh sang đánh. Vua cậy có nỏ thần, vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”
Quân Đà tiến sát, vua cầm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã mất bèn bỏ chạy. Vua đặt Mỵ Châu ngồi đằng sau ngựa rồi cùng nhau chạy về phương Nam.
Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ bể, đường cùng, không có thuyền qua bèn kêu rằng: “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”.
Rùa vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: “kẻ ngồi sau ngựa chính là giặc đó!”.
Vua bèn tuốt kiếm chém Mị Châu, Mị Châu khấn rằng: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại lại cha, chết đi sẽ biến thành hạt bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để tẩy sạch mối nhục thù”.
Mị Châu chết ở bờ bể, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê bảy tấc, rùa vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống bể. Đời truyền rằng nơi đó là đất Dạ Sơn, tổng Cao Xá, phủ Diễn Châu. Quân Đà kéo tới đấy không thấy bóng vết gì, chỉ còn lại xác Mị Châu. Trọng Thủy ôm xác vợ đem về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Mị Châu đã chết, Trọng Thủy thương tiếc khôn cùng, khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò ngọc ở biển Đông lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng, nhân kiêng tên Mỵ Châu cho nên gọi ngọc minh châu là đại cữu và tiểu cữu.” (Lĩnh Nam Chích Quái)
Lời bàn:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt,Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
(Xuân Diệu)
Một nền văn minh vĩ đại 26 thế kỷ như Văn Lang không thể nào lại cứ thế mà vô thanh vô tức biến mất trong lịch sử. Khúc vĩ thanh cuối cùng của nó tuy đau đớn nhưng lại vô cùng huy hoàng và bi ai, chính là được viết bởi An Dương Vương và nhà Âu Lạc, những người thừa kế cuối cùng của văn minh Thần truyền phương Nam. Những gì khắc vào đá có lẽ sẽ vỡ mà mất, khắc vào gỗ rồi cũng sẽ tiêu mất. Chỉ có những câu chuyện truyền miệng của dân gian là sống mãi. Nền văn minh Thần truyền vĩ đại của con cháu Long Quân kia có lẽ nhờ vào những truyền kỳ về sự tích giữ nước anh hùng của vua tôi nhà Âu Lạc hay câu chuyện tình đẫm nước mắt và máu của nàng Mỵ Châu mà lưu truyền mãi mãi về sau. Trân quý các bậc tiên tổ Âu Lạc, những vĩ nhân đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình trong lịch sử để con cháu qua bao năm dài chiến tranh mất mát vẫn còn đó mà biết về nguồn gốc của dân tộc đời đời.
Minh Bảo