Thiên cổ kỳ thư Tây Du Ký
Tiết mục “Tây Du Ký” trên sân khấu Shen Yun luôn được khán giả yêu thích trong nhiều năm qua, hình tượng của Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng sinh động như thật, đi vào lòng người. Trước mắt khán giả, phông nền sân khấu hiện đại với kỹ thuật cao đã thành công trong việc thể hiện rõ nét chân thực thần thông quảng đại của Tôn Ngộ Không.
“Tây Du Ký” được sáng tác bởi tác giả Ngô Thừa Ân vào giữa thời nhà Minh thế kỷ 16, kể về câu chuyện 4 thầy trò Đường Tam Tạng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng đi Tây phương thỉnh kinh cầu Pháp (nếu tính thêm Bạch Long Mã thì tổng cộng là 5 thầy trò).
Đường Tăng thỉnh kinh là câu chuyện có thật trong lịch sử. Đường Tăng, hiệu là Huyền Trang, tên tục là Y, họ Trần, người Lạc Châu Câu Thị (nay là quận Yển Sư, tỉnh Hà Nam) sinh ra vào năm Nhân Thọ thứ 2 (năm 602) dưới thời vua Tùy Văn Đế. Ông xuất gia năm 11 tuổi, khi còn trẻ đã là một danh tăng nổi tiếng khắp kinh thành và toàn nước Thục bởi sự thông tuệ thần ngộ của mình.
Huyền Trang cảm thấy Phật Pháp đang lưu truyền tại Trung thổ lúc bấy giờ hỗn loạn và khó hiểu, nên vào năm Đường Trinh Quán thứ ba (năm 629), ông từ Trường An, kinh đô của nhà Đường khởi hành đến Ấn Độ để thỉnh kinh. Trên đường đi ngang qua vùng Tân Cương và Trung Á ngày nay. Trải qua suốt 17 năm lặn lội bôn ba, vượt hơn 5 vạn dặm đường, vào năm Trinh Quán thứ 19 (năm 645), ông trở về Trường An với 657 bộ kinh Phật bằng tiếng Phạn thỉnh được. Sau đó, ông tổ chức dịch thuật kinh điển, và đã dịch tổng cộng 75 bộ kinh điển và tiểu luận, gồm 1.335 quyển. Huyền Trang do đó đã trở thành một học giả Phật giáo, một nhà dịch thuật và một nhà lữ hành hàng đầu trong lịch sử Trung Quốc, có cống hiến vượt thời đại cho sự lưu truyền Phật pháp tại Trung thổ.
Sau thời nhà Đường, câu chuyện Huyền Trang Tây hành được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, và dần trở nên hư hư thật thật, phong phú ly kỳ. Cuốn sách “Tây Du Ký” được viết vào giữa thời nhà Minh dựa trên câu chuyện Huyền Trang đi cầu Phật pháp, và bổ sung thêm một số lượng lớn các nhân vật và những tình tiết bất ngờ, kỳ ảo nhưng cũng đầy thú vị. Khi “Tây Du Ký” vừa mới ra mắt, Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng liền trở thành những nhân vật nổi tiếng được người người biết đến. Các câu chuyện như đại náo thiên cung, 3 lần đánh Bạch Cốt tinh, 3 lần mượn quạt ba tiêu v.v… đều rất được ưa chuộng và trở thành một phần hết sức độc đáo và hấp dẫn trong văn hóa Trung Quốc.
Duyên khởi của việc thỉnh kinh
Duyên khởi của việc thỉnh kinh đến từ một niệm muốn phổ độ chúng sinh của Phật Như Lai. Như Lai nhìn Tứ Đại Bộ Châu thì chỉ có Nam Thiện bộ châu, “tham dâm dục, hay đâm chém, miệng lưỡi hung dữ, thị phi độc ác”, vì vậy động niệm muốn tìm một người đại căn khí, để người đó trải qua trăm ngàn gian khổ đến Tây thiên “cầu thỉnh chân kinh, vĩnh truyền Đông thổ, khuyến hóa chúng sinh”. Quan Âm Bồ Tát nhận lệnh, quả nhiên tìm được thầy trò 5 người, trải qua chín chín tám mốt nạn, cuối cùng thỉnh được chân kinh, 5 người đều tu thành chính quả.
Người ta nói rằng thầy trò Đường tăng mỗi người đều có lai lịch riêng. Đường Tăng kiếp trước là đồ đệ thứ 2 của Phật Tổ Như Lai, tên gọi là Kim Thiền Tử. Nhân vì ngủ gật trong lúc nghe Pháp đã phạm phải tội khinh mạn Phật pháp, do đó mà bị giáng xuống phàm trần, thác sinh thành Đường Huyền Trang.
Tôn Ngộ Không vốn là con khỉ đá ở Hoa Quả Sơn Thủy Liêm Động thuộc Đông Thắng Thần Châu, đến Tây Ngưu Hạ Châu bái Đạo gia tổ sư tu tập thuật trường sinh bất lão, học được 72 phép biến hóa và cân đảo vân. Sau đó vì tâm tranh đấu chưa dứt mà đại náo thiên cung, bị Như Lai Phật Tổ đè dưới núi Ngũ Hành Sơn.
Trư Bát Giới vốn là Thiên Bồng Nguyên Soái ở Thiên Hà, chỉ vì lúc say rượu trêu ghẹo Thường Nga nên bị Ngọc Đế đánh cho hai ngàn chùy rồi đọa xuống trần gian. Không ngờ đầu thai nhầm đường vào bào thai của một con heo nái, biến thành bộ dạng xấu xí với cái mõm dài và tai lớn.
Sa Tăng vốn là Quyển Liêm đại tướng ở Linh Tiêu điện, chỉ vì vô ý lỡ tay làm vỡ đèn lưu ly ở hội bàn đào, nên bị Ngọc Đế giáng xuống hạ giới, chịu sự trừng phạt kiếm bay xuyên ngực tại sông Lưu Sa, phải chịu đói chịu lạnh, ăn thịt người để sống qua ngày. Còn Bạch Long Mã vốn là con trai của Tây Hải Long Vương Ngao Nhuận, vì phóng hỏa thiêu cháy viên minh châu trên điện, nên bị phụ vương bẩm tấu với thiên đình cáo tội ngỗ ngược. Vì vậy bị Ngọc Đế treo giữa không trung đánh 300 cái, chờ ngày xử phạt.
Quan Âm Bồ Tát đến Đông thổ tìm người thỉnh kinh đúng vào năm Đường Trinh Quán thứ 13. Đường Thái Tông Lý Thế Dân đang mở đại hội thủy lục, thỉnh cao tăng đắc đạo đến giảng kinh thuyết Pháp, vị cao tăng đó chính là Huyền Trang hòa thượng mà mọi người đang trông mong. Quan Âm Bồ Tát hóa thân thành một lão hòa thượng bị cùi để điểm hóa Huyền Trang đến Đại Lôi Âm Tự của nước Thiên Trúc bên Tây Thiên, nơi đức Phật Như Lai để thỉnh Đại Thừa Phật Pháp. Vì vậy Thái Tông và Huyền Trang bèn kết bái huynh đệ, cử Huyền Trang đến Tây Thiên thỉnh kinh.
Huyền Trang trên đường đi đã thu nhận Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa hòa thượng làm đồ đệ, Tiểu Bạch Long phạm tội đang đợi xử trảm cũng hóa thành một con bạch mã chở Đường Tăng. Thầy trò 5 người đồng tâm hiệp lực, chinh phục trùng trùng khó khăn nguy hiểm, trải qua chín chín tám mốt nạn, cuối cùng công đức viên mãn.
Điểm kỳ lạ của Tây Du Ký
Cái lạ của “Tây Du Ký” nằm ở cảnh giới. Không giống với việc thỉnh kinh của Huyền Trang, câu chuyện về “Tây Du Ký” vượt qua Tứ Đại Bộ Châu, thập phương thế giới, bất luận là Lăng Tiêu Bảo Điện của Ngọc Hoàng Đại Đế, hay là Lôi Âm Bảo Sát của Phật Như Lai; bất luận là Tứ Hải Long Cung, hay là âm ty địa phủ; bất luận là sông Thông Thiên sóng lớn cuồn cuộn, hay là Hỏa Diệm Sơn lửa cháy bừng bừng; bất luận là Nữ Nhi quốc hay là Chu Tử quốc, đều trở thành vũ đài biểu diễn của những nhân vật đi thỉnh kinh. Cùng với sự hùng vĩ kỳ bí, uyển chuyển hàm súc, sự u tịch, hiểm quái đều kết hợp hết sức chặt chẽ vững chắc.
Cái lạ của “Tây Du Ký” nằm ở tình tiết. Khỉ đá vốn là một sơn thạch, nó hấp thụ linh khí của đất trời, tinh hoa của nhật nguyệt, chỉ riêng nói về xuất thân của nó thì đã là điều kỳ lạ rồi. Điều kỳ lạ hơn nữa đó là con khỉ đá này không hài lòng với vinh hoa phú quý nơi Hoa Quả Sơn và sự ung dung tự tại của Thủy Liêm Động, mà lại phát tâm muốn tu Đạo. Ngộ Không học được 72 phép biến hóa và cân đẩu vân lộn một cái bay xa 10 vạn 8 nghìn dặm, lại ở Long cung của Đông Hải Long Vương mà được vũ khí định hải thần châm có thể tùy ý biến hóa, lại thêm luyện được hỏa nhãn kim tinh ở trong lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, có thể lên trời xuống đất, hô phong hoán vũ, đã là điều kỳ lạ rồi. Càng kỳ lạ hơn nữa là, con khỉ đá này mặc dù thần thông quảng đại, nhưng vẫn không nhảy thoát ra khỏi được lòng bàn tay của Phật Như Lai. Mỹ Hầu vương có thật giả, Đường Tăng có thật giả, Lôi Âm Tự có thật giả, đã là điều kỳ lạ rồi. Càng kỳ lạ hơn nữa là, ngay đến cả kinh Phật thỉnh được ở Tây Thiên Thế Giới Cực Lạc cũng có thật có giả. Những câu chuyện như đấu pháp ở Xa Trì quốc, ăn trộm ở Ngũ Trang Quán, sông Mẫu Tử hoài thai, làm thơ ở Mộc Tiên Am, trùng trùng những câu chuyện kỳ lạ, diệu kỳ cũng được kết hợp hết sức chặt chẽ.
Cái lạ của “Tây Du Ký” nằm ở các nhân vật. Trong thế giới của “Tây Du Ký” không chỉ có người phàm mà có rất nhiều không đếm được những Thần, Phật, Tiên, quái; Trong Thần, Phật, Tiên, quái không chỉ có Như Lai, Bồ Tát, La Hán, Kim Cương của Phật gia, mà còn có Ngọc Đế, Vương Mẫu, Lão Quân, Thiên Vương của Đạo gia; không chỉ có chính Thần, mà còn có đủ kiểu đủ loại yêu ma quỷ quái, ma vương quỷ sứ. Trong 5 thầy trò, Bạch Long Mã đã kỳ lạ rồi, kỳ lạ hơn nữa là Sa Tăng ở tại sông Lưu Sa ăn thịt người sống qua ngày, nhưng một khi quy y chính Pháp thì lại không ngại khó khăn vất vả, đạo tâm kiên cố. Trư Bát Giới siêng ăn lười làm, sắc tâm không trừ, đến Cao Lão Trang, đã là điều kỳ lạ rồi. Kỳ lạ hơn nữa là Tôn Ngộ Không ngộ tính cực cao, tài giỏi trong việc trừ yêu diệt quái, dựa vào thần thông thông thiên nhập địa của mình mà nhất tâm bảo hộ Đường Tăng là một người trần mắt thịt đến Tây Thiên thỉnh kinh. Điều kỳ lạ nhất vẫn là Thánh tăng Huyền Trang, một khi đã phát nguyện đến Tây Thiên thì có chết 9 lần cũng không hối hận, mặc dù trên đường thỉnh kinh khắp nơi đều có yêu ma quỷ quái muốn ăn “thịt Đường Tăng”, dựa vào sự phò trợ của 4 vị đồ đệ tài giỏi và sự bảo hộ của Thần Phật Bồ Tát các phương, mỗi lần đều gặp hung hóa cát, gặp nạn hóa lành, cuối cùng đến được Lôi Âm, công đức viên mãn.
Huyền cơ diệu lý
Tục ngữ nói: “Người ngoài nghề xem náo nhiệt, người trong nghề thấy cửa Đạo”. Điều mà đọc giả bình thường thưởng thức là những tình tiết náo nhiệt ly kỳ, và ngôn ngữ nhân vật hài hước dí dỏm trong “Tây Du Ký”, nhưng những đọc giả am hiểu văn hóa tu luyện của Trung Quốc thì không khó để phát hiện ra huyền cơ diệu lý tràn ngập trong một bộ tiểu thuyết lấy chủ đề tu luyện làm chủ đạo như “Tây Du Ký”.
Đường Tăng sau khi thu nhận Tôn Ngộ Không làm đồ đề, cái nạn đầu tiên gặp phải chính là 6 tên cướp, “một kẻ gọi là mắt khán hỷ, một kẻ là nhỉ thính nộ, một kẻ là tị khứu ái, một kẻ là thiệt thường tư, một kẻ là ý kiến dục, một kẻ là thân bổn ưu”. 6 tên cường đạo này là ẩn dụ cho “lục căn” mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà Phật gia nói đến, đánh chết 6 tên cường đạo ý nghĩa là phải trừ đi những phiền não và can nhiễu do các giác quan của nhục thân đem đến cho người tu luyện.
81 nạn, mỗi một nạn đều tương ứng với những tâm chấp trước mà người tu luyện nên trừ bỏ. Để trừ phá được những quan và nạn này, điều quan trọng không phải là tiêu diệt những yêu ma quỷ quái hữu hình, mà là những ma chướng trong nội tâm của người tu luyện. Do đó, trong 81 nạn, có một số là nhằm vào tâm sợ hãi của Đường Tăng, một số là nhằm vào tâm tranh đấu của Ngộ Không, một số lại nhằm vào tâm sắc, tâm tham và tâm lười biếng của Bát Giới.
Ở hồi thứ 50, Ngộ Không ra ngoài hóa trai, Đường Tăng cùng với Bát Giới và Sa Tăng đi đến một ngôi nhà cũ, nhìn thấy trên bàn có mấy chiếc áo gấm lót. Lúc này, thời tiết se lạnh, Bát Giới và Sa Tăng không cưỡng được sự cám dỗ, bèn thử một chút. Không ngờ vừa mặc lên người thì ngay lập tức chiếc áo trói chặt hai người lại. Ngộ Không trải qua bao khó khăn mới thỉnh được Thái Thượng Lão Quân hàng phục con “Kim hủy đại vương” này, hóa ra nó là con trâu xanh của Thái Thượng Lão Quân.
Ở hồi thứ 56, Ngộ Không đánh chết một đám sơn tặc, Đường Tăng trách Ngộ Không đã giết hại mạng người bèn niệm Khẩn Cô chú rồi đuổi Ngộ Không đi. Ngộ Không lúc này tâm sân đã trỗi dậy. Mặc dù Ngộ Không sau khi nghe Bồ Tát khuyên giải đã đồng ý quay về bảo hộ Đường Tăng đi thỉnh kinh, nhưng Ngộ Không giả đã nhân cơ hội đến bên cạnh Đường Tăng, dùng gậy kim cô đánh lên lưng của Đường Tăng, khiến Đường Tăng hôn mê bất tỉnh. Sa Tăng đến Hoa Quả Sơn tìm Ngộ Không hỏi chuyện thì nhìn thấy Ngộ Không đang ngồi trên một thạch đài cao nói rằng sẽ tự mình đi Tây phương bái Phật cầu kinh. Sa Tăng đến Nam Hải tìm Quan Âm Bồ Tát, đến nơi thì phát hiện Ngộ Không cũng đang ở đó. Sa Tăng cùng với Ngộ Không trở về Hoa Quả Sơn, quả nhiên thấy một “hành giả đang ngồi trên đài cao, uống rượu mua vui. Hai Ngộ Không giống nhau như đúc, Ngộ Không thật và giả giằng co tranh đấu từ Hoa Quả Sơn đánh đến Nam Hải, từ Nam Hải đánh lên Thiên Đình, đến cả kính chiếu yêu của Tháp Thiên Vương cũng không phân biệt được ai thật ai giả. Cuối cùng Phật Tổ Như Lai nhận ra được Ngộ Không giả là một con khỉ 6 tai có ngoại hình và giọng nói giống hệt Ngộ Không thật.
Từ góc độ tu luyện, không khó để lý giải về con khỉ 6 tai này. Ngộ Không bị Đường Tăng quở mắng, tâm sân khởi lên, con khỉ 6 tai này chính là thể hiện ma tính của tâm sân của Ngộ Không. Chủ đề của hồi thứ 58, “nhị tâm giảo loạn đại càn khôn, nhất thể nan tu chân tịch diệt”, và câu thơ cuối của hồi này “thần quy tâm xả thiện phương định”, chỉ ra rằng Ngộ Không giả thực ra chính là ma tính của Ngộ Không thật huyễn hóa mà ra, có thể “thần quy tâm xả” thì Ngộ Không giả tự nhiên cũng biến mất vô hình.
Ngoài Ngộ Không giả ra, lúc thầy trò sắp đến Tây Thiên thì lại gặp nạn ở “tiểu Lôi Âm Tự”. Ở hồi thứ 65, thầy trò đi đến một ngọn núi cao, bảo tự nơi đó chạm trổ đẹp mắt, hào quang sáng chói. Chỉ có Ngộ Không nhìn ra được hung khí ở đó, còn Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng thì cuống quýt bái lạy, yêu quái bèn bắt hết tất cả mấy thầy trò. Cuối cùng nhờ Phật Di Lặc thu phục Hoàng Mi lão quái, trợ giúp thầy trò Đường Tăng vượt qua kiếp nạn này. Nhìn từ góc độ tu luyện, kiếp nạn ở “tiểu Lôi Âm Tự” này có thể lý giải rằng pháp môn tu luyện có thật có giả, cho đến thời khắc cuối cùng của sự tu luyện cũng sẽ xuất hiện khảo nghiệm đối với người tu luyện. Nếu lạc sang oai môn tà đạo thì tất yếu không thể tu thành chánh quả.
Hồi thứ 98 trong “Tây Du Ký”, hai vị tôn giả A Nan và Ca Diếp yêu cầu thầy trò Đường Tăng hối lộ, đây là vấn đề khó giải quyết nhất. Thầy trò Đường Tăng trải qua muôn vạn khó khăn gian khổ cuối cùng mới đến được Tây Thiên Lôi Âm Tự, hai vị tôn giả A Nan và Ca Diếp phụng lệnh đức Như Lai đưa thầy trò Đường Tăng đến Bảo Cát để lấy kinh. Hai vị tôn giả đòi hối lộ không thành bèn đưa kinh vô tự cho họ. Hành giả kiện lên Như Lai, không ngờ Phật Tổ cũng cùng một khẩu khí với hai vị tôn giả.
“Ngươi đừng làm ồn nữa, việc hai người họ đòi hối lộ từ ngươi ta đều đã biết rồi”. Nhưng chỉ vì kinh không thể truyền dễ dàng được, cũng không thể thỉnh không được, trước đây chúng tỳ kheo thánh tăng xuống núi từng đem kinh này tụng đọc một biến cho nhà Triệu trưởng giả ở nước Xá Vệ, người sống thì được bảo bình an, người mất thì được siêu thoát, nhưng ông ta chỉ trả 3 đấu 3 thăng gạo trắng và ít vàng bạc, ta còn nói bọn họ thật hà tiện, con cháu sau này sẽ phải chịu nghèo nàn”.
Hai vị tôn giả dẫn 4 người quay trở lại Trân Lâu Bảo Cát và vẫn một mực đòi hối lộ từ Đường Tăng. Đường Tăng bất đắc dĩ đành bảo Sa Tăng lấy ra Kim tử bình bát mà trước đây vua Đường đã tặng để dâng lên hai vị tôn giả. A Nan sắc mặt vui vẻ, cầm mãi bình bát không buông.
Từ trước đến nay tình tiết này bị người xem cho rằng đây là ngòi bút châm biếm của Ngô Thừa Ân – ngay cả Tây Thiên Cực Lạc thế giới cũng tồn tại những chuyện tham ô hối lộ. Thật ra, người tu luyện phải tu bỏ tất cả tâm chấp trước thì mới công thành viên mãn. Sự tham luyến của Đường Tăng đối với Kim tử bình bát cho thấy trong đó vừa là tâm tham tài vật lại vừa có tình cảm người thường đối với vua Đường, mà những điều này vừa vặn chính là thứ mà người tu luyện cần tu bỏ. Nếu những tâm này không thể tu bỏ thì không thể nói đến việc công đức viên mãn được.
Mỗi một quan mỗi một nạn mà thầy trò Đường tăng gặp phải trên đường đi thỉnh kinh đều là sự an bài công phu tỉ mỉ của Phật Tổ Như Lai và Quan Âm Bồ Tát. Yêu quái Hoàng Phong là con chồn lông vàng đắc đạo dưới chân núi Linh sơn của Linh Cát Bồ Tát, Hoàng Bào yêu quái là một trong 28 vị tinh túc có tên gọi là Khuê Mộc Lang, khi về đến Thiên Cung, Ngọc Đế nói hắn “phụng mệnh hành sự có công nên được phục chức”. Kim Giác đại vương, Ngân Giác đại vương là hai đồng tử Kim và Ngân của Thái Thượng Lão Quân. Linh Cảm đại vương là con cá vàng được nuôi ở Liên Hoa trì của Quan Thế Âm Bồ Tát. Độc Giác Hủy đại vương là vật cưỡi của Thái Thượng Lão Quân. Hoàng Mi lão quái là tiểu đồng lông mày vàng giữ khánh của Phật Di Lặc. Thanh Mao Sư tử quái, Hoàng Nha lão tượng quái là vật cưỡi của Văn Thù và Phổ Hiền; Chim đại bàng là cậu của Phật Như Lai. Quan Âm Bồ Tát lợi dụng mối quan hệ nhân duyên giữa các sinh mệnh để giải quyết nghiệp nợ giữa họ với nhau, đồng thời cũng là giúp thầy trò Đường Tăng tu tâm tính trừ bỏ nghiệp, tu luyện viên mãn.
“Tây Du Ký” bắt nguồn từ văn hóa tu luyện bác đại tinh thâm trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, các tình tiết, nhân vật, lời thoại, thơ ca trong sách đều có ý nghĩa sâu sắc. Đoàn Nghệ thuật Shen Yun đã đưa câu chuyện trong Tây Du Ký đến với vũ đài Năm Châu, cùng với việc đem lại nụ cười cho khán giả, còn phổ biến nội hàm của văn hóa tu luyện đến với mọi người. Trong lúc toàn thế giới đang bắt đầu tìm hiểu và nhìn nhận lại văn hóa truyền thống Trung Quốc như hiện nay, thì “Tây Du Ký” – báu vật trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc này chắc chắn sẽ càng đạt được nhiều thành tựu xuất sắc hơn nữa.
Đăng lại từ website của Đoàn Nghệ Thuật Shen Yun(Website Shen Yun ủy quyền đăng tải, Bản quyền thuộc sở hữu của Đoàn Nghệ Thuật Shen Yun)
Oanh Lê biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ
Xem thêm: