PHÂN TÍCH: Chính trị, tài chính hợp nhất khi các ngân hàng ngày càng ít đi nhưng liên kết với chính phủ nhiều hơn
Chuyên gia cho biết, ‘Wall Street và Hoa Thịnh Đốn hiện đang gắn bó mật thiết với nhau hơn bao giờ hết’
Việc JPMorgan Chase mua lại ngân hàng First Republic Bank hôm 01/05 chỉ là bước mới nhất trong quá trình hợp nhất không ngừng giữa các ngân hàng Hoa Kỳ, khi ngành ngân hàng của Hoa Kỳ trở nên tập trung hơn và gắn bó chặt chẽ hơn với chính phủ liên bang.
Kể từ cuộc “Đại Khủng hoảng Tài chính” năm 2008, các cơ quan quản lý liên bang đã trở nên thoải mái với việc một số ít ngân hàng lớn dẫn đầu ngành ngân hàng, và thực tế là các cơ quan chính phủ có một mối quan hệ làm việc ngày càng chặt chẽ hơn với số ít các ngân hàng này.
Chiến lược của việc quản lý ngành ngân hàng là cho phép ngành này hợp nhất thành một lượng ngân hàng ngày càng ít hơn nhưng có quy mô ngày càng lớn hơn, phải tuân theo quy định chặt chẽ hơn, các yêu cầu về vốn cao hơn, và vượt qua nhiều bài kiểm tra khác nhau về khả năng chống chịu hơn. Về lý thuyết, làm vậy khiến cho hệ thống ngân hàng mạnh mẽ hơn và ít bị khủng hoảng tài chính hơn.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan liên bang và các ngân hàng đã làm nổi bật nhiều vấn đề, chẳng hạn như sự hợp tác giữa các cơ quan quản lý và các ngân hàng như JPMorgan Chase, Citibank, Bank of America, và Wells Fargo cho một quỹ trị giá 30 tỷ USD trong một cố gắng thất bại nhằm ứng cứu ngân hàng First Republic. Sự hợp tác này cũng bao gồm hoạt động giám sát cho FBI do Bank of America thực hiện, nhằm tìm kiếm mà không có trát lệnh các tài khoản của khách hàng để theo dõi lịch sử đi lại và mua sắm trong các cuộc bạo loạn ngày 06/01/2021 tại Điện Capitol Hoa Kỳ.
Nhiều người nghiên cứu ngành ngân hàng Mỹ nói rằng sự hợp nhất này chắc chắn sẽ tiếp tục và sự sụp đổ gần đây của một số ngân hàng khu vực chỉ là chương mới nhất trong câu chuyện này. Những người khác lo sợ rằng việc hệ thống tài chính của quốc gia tập trung quá nhiều vào một số ít ngân hàng “đa năng”, vốn hiện nay đã trở nên “quá lớn để có thể phá sản”, sẽ mang đến một bộ rủi ro hệ thống của riêng sự chuyên biệt này, và rằng các ngân hàng hiện đã trở nên liên kết quá chặt chẽ với chính phủ liên bang.
Ông Samuel Gregg, một nhà kinh tế chính trị tại Viện Nghiên cứu Kinh tế Hoa Kỳ (AIER), nói với The Epoch Times: “Quý vị chỉ cần nhận ra rằng phần lớn Đạo luật Cải cách và Bảo vệ người tiêu dùng (Dodd-Frank Act) đã được viết một cách hữu hiệu nhờ sự trợ giúp của những người làm việc tại các ngân hàng nổi tiếng để biết rằng sự hợp nhất này là có thật.”
Được thông qua vào năm 2010 để ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Đạo luật Dodd-Frank đã hứa hẹn sẽ bảo vệ người đóng thuế ở Mỹ bằng cách chấm dứt các gói cứu trợ và giảm thiểu rủi ro từ các ngân hàng quá lớn để phá sản. Mặc dù Đạo luật Dodd-Frank đã tăng cường việc kiểm soát thông qua quy định, nhưng đạo luật này đã thất bại trong mục tiêu giảm thiểu rủi ro của việc hệ thống tài chính chịu ảnh hưởng từ các tổ chức đơn lẻ. Thay vào đó, đạo luật này đã làm chính điều ngược lại.
Ông Gregg nói: “[Đạo luật Dodd-Frank] đã mang lại lợi ích cho các ngân hàng lớn trong khi gây khó khăn cho các ngân hàng vừa và nhỏ. Wall Street và Hoa Thịnh Đốn hiện đang gắn bó mật thiết với nhau hơn bao giờ hết.”
Ngân hàng nhỏ so với ngân hàng lớn
Trình bày tại một hội nghị về quy định tài chính hôm 14/04, Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Michelle Bowman tuyên bố rằng số lượng ngân hàng ở Mỹ đã bị cắt giảm một nửa trong hai thập niên qua và việc thành lập các ngân hàng mới “về căn bản đã bị đình trệ … hạn chế khả năng cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các cộng đồng thiếu dịch vụ.”
Bất chấp những vụ sụp đổ gần đây của ba ngân hàng khu vực, bà Bowman nói rằng “các ngân hàng nhỏ nhất thường hoạt động tốt hơn các ngân hàng lớn hơn trong thời kỳ căng thẳng, như đại dịch và trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.”
“Trong lịch sử, trong thời kỳ căng thẳng về kinh tế và tài chính, các tổ chức nhỏ nhất đã hoạt động hết sức tốt,” bà nói. “Ví dụ, các ngân hàng nhỏ đã thể hiện sức mạnh này trong thời kỳ đại dịch thông qua cam kết lớn vượt quá quy mô của họ trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ.”
Theo ông Michael Hsu, người điều hành Văn phòng Kiểm soát Tiền tệ (OCC) và giám sát khoảng 1,000 ngân hàng quốc gia, một số ngân hàng Hoa Kỳ có thể đã trở nên “quá lớn và phức tạp đến mức việc thất bại trong kiểm soát, những biến cố về quản lý rủi ro và những bất ngờ tiêu cực xảy ra quá thường xuyên — không phải vì quản lý yếu kém, mà là vì quy mô và sự phức tạp quá lớn của tổ chức đó. Tóm lại, khả năng quản lý hiệu quả không phải là có thể mở rộng được vô hạn cùng với quy mô.”
Và trong khi các nhà đầu tư có cái nhìn bi quan về các ngân hàng nhỏ hơn trong năm nay, và thường xuyên bán tháo cổ phiếu và rút tiền gửi một cách hoảng loạn, thì dường như họ cũng không mấy mặn mà với các ngân hàng đa năng ở Wall Street.
Một nghiên cứu hồi tháng 12/2022 của McKinsey, một công ty tư vấn quản lý, tuyên bố rằng ngành ngân hàng Mỹ là “ngành có giá trị thấp nhất trên thế giới vào năm 2021.” Tâm lý nhà đầu tư thậm chí còn tệ hơn vào năm 2023; cổ phiếu các ngân hàng đã bắt đầu năm nay khi giao dịch với mức chênh lệch trung bình cao hơn 40% so với giá trị sổ sách của họ, nhưng đến tháng Tư thì đã giao dịch ở mức giá bằng với giá trị sổ sách của họ.
Điều này có nghĩa là các nhà đầu tư coi các ngân hàng không đáng giá hơn giá trị phát mại của các nhà băng này trên lý thuyết. [Trong khi đó], tỷ lệ giá trên giá trị sổ sách trung bình của các công ty thuộc S&P 500 hiện là 4.05.
Báo cáo của McKinsey đã lưu ý rằng tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng đã giảm hơn 25% trong 15 năm qua và dự kiến sẽ giảm thêm 20% trong thập niên tới. Họ cũng đã dự đoán rằng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các ngân hàng, vốn đã giảm từ 15% vào năm 2007 xuống còn 9.5% vào năm 2021, sẽ tiếp tục giảm trong những năm tới.
“Cổ phiếu ngân hàng giao dịch với mức chiết khấu tăng nhanh so với các ngành khác — từ mức chiết khấu 15% trong năm 2000 xuống mức chiết khấu 70% vào năm 2022,” báo cáo nêu rõ. “Những con số này có nghĩa là các nhà đầu tư toàn cầu đang bỏ phiếu với hàng ngàn tỷ USD chống lại khả năng sinh lời và tính bền vững trong tương lai của mô hình hiện tại của các ngân hàng đa năng.”
Công ty tư vấn này đã xem ngành ngân hàng là có “một cơ hội phân rã trị giá 20 ngàn tỷ USD”, và mặc dù họ không đề cập đến trong báo cáo, nhưng đây cũng sẽ là một cơ hội hấp dẫn để thu phí tư vấn.
Số lượng ngân hàng giảm liên tục
Số lượng các ngân hàng hoạt động tại Hoa Kỳ đã sụt giảm đều đặn, với một số giai đoạn giảm nhanh chóng. Bước ra từ cuộc Đại Suy Thoái vào những năm 1930, số lượng các ngân hàng thương mại ở Hoa Kỳ được duy trì ổn định trong nhiều thập niên ở mức từ 13,000 đến 14,000. Sau đó, bắt đầu từ những năm 1980, con số đó bắt đầu giảm xuống, cho đến khi chạm đến mức hiện nay ở vào khoảng 4,800 ngân hàng.
Cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay trong những năm 1980 khiến các ngân hàng có danh mục tài sản có lãi suất cố định dài hạn, điển hình là các khoản cho vay thế chấp và cho vay địa ốc, bị vắt kiệt bởi lãi suất tăng. Hậu quả của cuộc khủng hoảng này là 6,000 ngân hàng phá sản. Tiếp theo đó là cuộc “Đại Khủng hoảng Tài chính” năm 2008, khi các vụ vỡ nợ lớn về các khoản vay thế chấp đe dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống tài chính.
Cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay có những điểm tương đồng với cuộc khủng hoảng ngân hàng khu vực ngày nay, mà cho đến nay hầu hết chỉ giới hạn ở các ngân hàng khu vực với số lượng lớn tiền gửi không được bảo hiểm được đầu tư vào tài sản có lãi suất cố định dài hạn. Các ngân hàng này, gồm Silicon Valley Bank (SVB), Signature Bank, và gần đây nhất là First Republic Bank, đã bị ảnh hưởng bởi lãi suất tăng.
Số lượng ngân hàng Mỹ phá sản đạt đỉnh điểm vào những năm 1980, nhưng năm 2023 là năm nổi bật của các vụ sụp đổ lớn
Thị trường tài chính của Mỹ là độc nhất, là kết quả của những cố gắng lịch sử nhằm đa dạng hóa rủi ro, duy trì hoạt động ngân hàng cộng đồng, và bảo vệ người gửi tiền. Đạo luật Ngân hàng Quốc gia năm 1863, và sau đó là Đạo luật McFadden năm 1927, đã cấm việc sở hữu và điều hành các ngân hàng xuyên tiểu bang. Trong nỗ lực bảo vệ người gửi tiền, Đạo luật Glass-Steagall năm 1933 đã thành lập Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) và tách các ngân hàng kinh doanh cổ phiếu và trái phiếu khỏi các ngân hàng nhận tiền gửi.
Kết quả là một loạt các ngân hàng ra đời, từ các ngân hàng đầu tư nhanh ở Wall Street, đến các ngân hàng thương mại rất lớn, cho đến các ngân hàng địa phương và khu vực nhỏ. Tuy nhiên, e ngại rằng việc các ngân hàng tập trung vào một tiểu bang hoặc khu vực sẽ tạo ra rủi ro quá lớn cho hệ thống tài chính, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Xuyên tiểu bang năm 1994, cho phép các ngân hàng mở chi nhánh trên khắp các tiểu bang.
Năm 1999, Đạo luật Hiện đại hóa Dịch vụ Tài chính đã bãi bỏ các điều khoản tách biệt hoạt động nhận tiền gửi và hoạt động ngân hàng đầu tư trong Đạo luật Glass-Steagall. Sự bãi bỏ quy định này đã dẫn đến làn sóng sáp nhập và mua lại giữa các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư, dẫn đến việc các “ngân hàng đa năng” lớn sáp nhập các hãng nổi tiếng như Salomon Brothers, First Boston, Bear Stearns, và Merrill Lynch. Và bản thân các ngân hàng đa năng cũng đã hợp nhất với nhau, chẳng hạn như JPMorgan Chase và Bank One đã hợp nhất để trở thành JPMorgan Chase, còn ngân hàng Wachovia thì bị Wells Fargo thâu tóm.
Các ngân hàng mạo hiểm tham dự chính trị
Đối với người Mỹ, xu hướng sáp nhập và hợp tác chặt chẽ hơn với chính phủ, được mệnh danh là cuộc “Đại Hợp Nhất”, cuối cùng có thể dẫn đến tình trạng khan hiếm các dịch vụ ngân hàng dành cho các cá nhân, doanh nghiệp nhỏ và các cộng đồng nhỏ hơn, cũng như ít cơ hội hơn cho các ngân hàng đổi mới và phục vụ được khách hàng mà vẫn có lợi nhuận. Cuộc Đại Hợp Nhất này cũng đã mở ra một kỷ nguyên mà Wall Street đảm nhận một vai trò lớn hơn trong chính trị, ngay cả khi chính phủ liên bang đảm nhận một vai trò mạnh mẽ hơn trong việc chỉ thị Wall Street.
Mạo hiểm tham gia chính trị trong thư gửi cổ đông năm 2022, Giám đốc điều hành JPMorgan Chase Jamie Dimon tuyên bố rằng “chúng ta cần tìm cách tái tổ chức lại chính phủ một cách nhanh chóng hơn cho thế giới mới,” đồng thời kêu gọi Hoa Kỳ bắt tay vào một chính sách công nghiệp, có nghĩa là “chính phủ liên bang, thông qua các chính sách và khuyến khích, thúc đẩy ngành công nghiệp Mỹ,” để thúc đẩy các ngành như pin, đất hiếm, vi mạch bán dẫn, hoặc xe điện.
Ông viết: “Chúng ta thậm chí có thể cần phải viện đến quyền trưng dụng tài sản thuộc sở hữu tư nhân,” đề cập đến việc chính phủ thu giữ đất đai của người Mỹ, để xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng “xanh”. Nhưng “hãy yên tâm, CEO của quý vị là một nhà tư bản máu đỏ, yêu nước, theo doanh nghiệp tự do và thị trường tự do (tất nhiên là, với sự quản lý thực thụ).”
Năm 2022, các ngân hàng “Big Four” — JPMorgan Chase, Bank of America, Citibank, và Wells Fargo — đã cùng nhau chi hàng tỷ USD cho các hoạt động chính trị cấp tiến. Ví dụ, Giám đốc điều hành của Bank of America, ông Brian Moynihan, đã tuyên bố trong báo cáo cổ đông năm 2022 của mình rằng ngân hàng “dự định khai triển 1.5 ngàn tỷ USD tài chính bền vững vào năm 2030, trong đó 1 ngàn tỷ USD được sử dụng cho quá trình chuyển đổi môi trường và 500 tỷ USD cho phát triển xã hội hòa nhập.”
Kế hoạch này bao gồm Trái phiếu Bền vững Tiến bộ Bình đẳng (Equality Progress Sustainability Bond) trị giá 2 tỷ USD của Bank of America, “giúp thúc đẩy bình đẳng giới và bình đẳng chủng tộc, cơ hội kinh tế, và môi trường bền vững.” JPMorgan Chase và Bank of America cũng được cho là cung cấp tài chính cho một số chủng tộc được ưu tiên nhất định với các điều khoản ưu đãi.
‘Ngân hàng ngầm’ và việc đóng cửa các chi nhánh
Hiện tại, 95% người Mỹ có tài khoản ngân hàng. Tuy nhiên, xu hướng giữa các ngân hàng là đóng cửa các chi nhánh, đặc biệt là các chi nhánh ở các cộng đồng nông thôn, vùng sâu vùng xa, và có thu nhập thấp.
Theo báo cáo của S&P Global Market Intelligence, gần 3,000 chi nhánh ngân hàng đã bị đóng cửa trên khắp Hoa Kỳ vào năm 2021. Wells Fargo, ngân hàng tích cực nhất trong việc đóng cửa các chi nhánh, đã đóng cửa 267 chi nhánh trong số đó. Nhìn chung, năm tiểu bang có nhiều chi nhánh bị đóng cửa nhất là California, với 269 chi nhánh bị đóng cửa; Michigan, với 247; New York, với 221; Florida, với 192; và Illinois, với 153.
“Các thị trường vốn của Mỹ vẫn rất cạnh tranh theo tiêu chuẩn toàn cầu,” ông Gregg nói. “Nhưng khi các thị trường này ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn, thì chúng sẽ trở nên kém cạnh tranh hơn, vì các ngân hàng lớn có thể gánh chịu được chi phí của quy định ngày càng nhiều hơn theo cách mà các ngân hàng vừa và nhỏ không thể.”
Ngoài ra, ông nói, “có thể số lượng ngân hàng ít hơn có khả năng dẫn đến việc ngành ngân hàng trở nên ít quan tâm hơn đến việc giúp đỡ các doanh nhân và công ty khởi nghiệp mới, cũng như ít quan tâm hơn đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện hữu, vì các ngân hàng lớn sẽ có xu hướng tập trung vào các khách hàng lớn.”
Một phần của xu hướng đóng cửa chi nhánh là do có ít người đến chi nhánh ngân hàng hơn do sự phát triển của ngành công nghệ tài chính (fintech). Các ngân hàng hiện đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các đại gia công nghệ với việc công chúng ngày càng đón nhận các công nghệ mới như các ứng dụng thanh toán, trong đó có PayPal, Venmo, Apple Pay, và Google Pay. Và sự gia tăng của ngân hàng trực tuyến cũng đã cho phép khách hàng tại các ngân hàng như SVB rút tiền gửi của họ ra khỏi ngân hàng ngay lập tức mà không cần phải đến chi nhánh, sau khi tin đồn rằng ngân hàng này đang gặp rắc rối lan truyền trên mạng xã hội.
Đồng thời, một số lĩnh vực ngân hàng đã được tiếp quản bởi các công ty chuyên môn, tạo ra cái mà bà Bowman gọi là ngành “ngân hàng ngầm” mà phần lớn hoạt động bên ngoài khuôn khổ pháp lý ngân hàng. Điều này không chỉ bao gồm ngành công nghệ tài chính mà còn bao gồm cả các công ty như các công ty cho vay thế chấp.
Bà Bowman cho biết, “Việc khởi tạo và cung cấp dịch vụ cho vay thế chấp — cả hai đều là hoạt động ngân hàng truyền thống, lâu đời — đã chuyển sang các tổ chức phi ngân hàng sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Năm 2020, 68% các khoản cho vay thế chấp mới được phát hành bởi các công ty cho vay thế chấp và các tổ chức phi ngân hàng khác. Các công ty cho vay phi ngân hàng này cũng đang bước vào các lĩnh vực khác, như cho vay doanh nghiệp, cho vay trang trại, địa ốc thương mại, và cho vay tiêu dùng.”
Và trong khi hệ thống “ngân hàng ngầm” có thể lấn chiếm lợi nhuận của các ngân hàng, thì các công ty kiểu này không hẳn giúp làm giảm rủi ro cho các ngân hàng.
Vân Du biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times