Một nghệ sĩ Ý có sức ảnh hưởng nhưng ít được biết đến
Nghệ sĩ La Mã Pietro Cavallini ở thế kỷ 14 đã đưa hơi thở tự nhiên, chân thực vào các bức bích họa và tranh khảm của mình, đặt nền móng cho phong cách thời kỳ Phục Hưng Ý.
Nếu bạn chưa từng nghe nói đến nghệ sĩ Pietro Cavallini (khoảng năm 1250 — khoảng năm 1330), thì cũng không có gì lạ. Tuy nhiên, vào thời của mình, ông Cavallini là một họa sĩ vẽ bích họa và thợ khảm người La Mã nổi tiếng và để lại rất nhiều tác phẩm. Ông có tác động sâu sắc đến một nghệ sĩ đương thời, họa sĩ người Florence lừng danh Giotto di Bondone (1266/67 hoặc 1276–1337). Tác phẩm của Giotto phần lớn được biết đến và được xem là có ảnh hưởng quan trọng đối với các nghệ sĩ thời kỳ Sơ Phục Hưng.
Vào thế kỷ 13 và 14, nghệ thuật tranh khảm rất thịnh hành, và bích họa được coi là loại tranh khảm dành cho người nghèo. Những ví dụ xuất xắc về tranh khảm của họa sĩ Cavallini có thể được thưởng lãm trong nhà thờ Thánh Maria ở Trastevere, thành Rome, tất cả đều minh họa Đức Trinh Nữ và cho thấy người nghệ sĩ này đã chịu ảnh hưởng như thế nào từ các thiết kế cổ điển mà ông đã “phục dựng” trong thời kỳ đầu sự nghiệp của mình.
Năm 1308, vua Charles Đệ nhị xứ Naples, (cháu trai của vua Louis IX nước Pháp), đã mời ông đến Naples. Tại đây, ông nhìn thấy phong cách Gothic kiểu Pháp và vẽ một vài bức bích họa ở Nhà thờ Thánh Maria Donna Regina Vecchia của thành phố.
Hiện nay, có rất ít bích họa của ông Cavallini còn sót lại, nhưng chúng ta có thể thưởng lãm một trong những tác phẩm ấn tượng nhất, “The Last Judgment” (Sự phán xét cuối cùng), tại Nhà thờ Thánh Cecilia xứ Trastevere ở Rome, là nơi ở và nơi chôn cất cuối cùng vị thánh này. Việc cải tạo nhà thờ vào thế kỷ 18 đã loại bỏ hoặc che đi nhiều tác phẩm của ông, và bức bích họa này chỉ được phát hiện lại vào năm 1900. Giờ đây, du khách chỉ có thể chiêm ngưỡng bích họa bằng cách đi qua cửa vào nhà thờ dẫn họ đến [nơi] dàn hợp xướng của các nữ tu, thuộc Tu viện nữ Benedictine liền kề.
‘Sự phán xét cuối cùng’
Từng là một phần của chuỗi bích họa cỡ lớn nhưng hiện đã thất lạc, tác phẩm “Sự phán xét cuối cùng” siêu phàm của họa sĩ Cavallini cho chúng ta thấy nghệ thuật của ông đã phát triển như thế nào trong phong cách Byzantine. Đồng thời, nó cũng dự báo về phong cách nghệ thuật tự nhiên, chân thực hơn sắp khai thủy của thời kỳ Sơ Phục Hưng. Theo cuốn sách “Người Bạn Đồng Hành Với Nghệ Thuật Của Oxford” (The Oxford Companion to Art) do nhà triết học Harold Osborne biên tập, trong tác phẩm “Sự phán xét cuối cùng,” ông Cavallini đã sử dụng “cách diễn giải tự do hơn về các chủ đề Byzantine và xử lý chất liệu vải mềm mại hơn, tạo hiệu ứng ánh sáng trên họa tiết và một vẻ uy nghiêm cổ điển nhất định cũng như cảm giác về không gian, khiến ông trở thành cầu nối giữa hội họa cổ xưa và cuộc phục hưng do danh họa Giotto khởi xướng.” Trong chuỗi bích họa nổi tiếng nhất của mình ở Nhà nguyện Arena (Nhà nguyện Scrovegni) tại Padua, Ý, danh họa Giotto đã dựa theo tác phẩm “Sự phán xét cuối cùng” của Cavallini để vẽ lại cảnh các tông đồ đang ngự trên ngai.
Ở trung tâm tác phẩm của họa sĩ Cavallini, chúng ta thấy hình ảnh miêu tả “Thiên Chúa thực hiện phán xét” theo lối truyền thống (một biến thể của chủ đề “Thiên Chúa đầy uy nghi” (Maiestas Domini, trong tiếng Latinh) đã được sử dụng trong nghệ thuật Cơ Đốc Giáo từ thế kỷ thứ tư). Ông Cavallini đặt Đấng Christ trong một “mandorla,” (tiếng Ý có nghĩa là “hạnh nhân”), biểu tượng cho cả Thần tính của Ngài lẫn sự kiện siêu phàm này. Chúng ta có thể thấy những vết thương ở cạnh sườn, tay, và bàn chân cho thấy sự tử vì đạo của Ngài và những gì Ngài phải chịu đựng khi bị đóng đinh lên thập tự giá. Một vầng hào quang màu vàng với cây thánh giá bao quanh đầu Ngài, một lần nữa nhắc nhở chúng ta về trạng thái chí thánh và sự hy sinh vị tha của Ngài.
Hầu như mọi người trong khung cảnh này đều tập trung vào Ngài. Các thiên thần từ trên cao bay lượn ở độ cao khác nhau để nhìn thấy Chúa, dường như biểu thị tầng thứ của thiên thần và các cõi trời khác nhau của họ. Mỗi thiên thần đều hơi nghiêng đầu trong sự ngạc nhiên và hiếu kỳ. Đức Mẹ và Thánh John Baptist đứng cạnh các thiên thần (cặp nhân vật thường thấy trong chủ đề này). Mười hai tông đồ đứng cạnh nhóm thiên sứ trung tâm; một số người cầm kiếm, một người cầm cốc, và hai người cầm cây thánh giá.
Họa sĩ Cavallini chủ yếu sử dụng màu đỏ, xanh lam, và vàng để vẽ bức tranh này. Theo truyền thống có từ nhiều thế kỷ, các màu sắc này thường được sử dụng để mô tả các khung cảnh thần thánh như vậy. Tuy nhiên, thay vì dáng người phẳng dẹt và biểu cảm gương mặt gần như lãnh đạm thời đó, họa sĩ Cavallini đã thổi sức sống vào từng nhân vật. Ông thể hiện những hình tượng này bằng những cảm xúc và sự vững chắc chưa từng thấy kể từ thời nghệ thuật La Mã cổ đại. Chẳng hạn, hãy xem cách ông khắc họa thiên thần ở trên cùng bên trái (đó có thể là seraph, một thiên thần tối cao mà theo truyền thống thường được vẽ không có cơ thể). Ông sử dụng một loạt các đường nét để tạo khối cho khuôn mặt tròn, qua đó nhấn mạnh sự thuần khiết của thiên thần — sự ngây thơ mà chúng ta thường ví von với tuổi trẻ. Ông đã hoàn thiện thiên thần đầy biểu cảm này bằng một ánh nhìn trìu mến, gần như đầy lòng thương xót. Trong các nhân vật khác, chúng ta có thể thấy cách ông thêm chiều sâu và dung lượng cho áo choàng; ở một vài tông đồ, chúng ta thậm chí có thể nhìn thấy phần bụng hơi tròn của họ, và ở nhiều tông đồ khác, những sợi tóc được vẽ một cách tỉ mẩn.
Để thực sự chiêm ngưỡng toàn cảnh [của tác phẩm], người ta phải đi ngang qua [khu vực] dàn đồng ca của các nữ tu, vì những hàng ghế dài trong nhà thờ đã che khuất các nhân vật mà họa sĩ Cavallini vẽ bên dưới Đấng Christ. Ở đó, chúng ta thấy rất đông người đang tiến đến cổng thiên đường, và các nhạc công thiên thần hân hoan báo tin về sự xuất hiện của họ. Thật không may, góc máy ảnh không thể chụp được cảnh tượng này.
Theo truyền thống, các tín đồ sẽ nhìn thấy cảnh tượng sự phán xét cuối cùng trước khi rời khỏi nhà thờ, như một lời nhắc nhở sâu sắc về trách nhiệm của họ đối với đức tin Cơ Đốc Giáo và điều cuối cùng sẽ chờ đợi họ khi rời khỏi trần thế.
Hòa Long biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times