Khuếch đại tình hình khó khăn của Trung Quốc, Bắc Kinh chứng khoán hóa nợ xấu
Khi các khoản nợ xấu và nợ cần chú ý (special mention loan) ngày càng gia tăng, Bắc Kinh đang chỉ thị các ngân hàng chứng khoán hóa nợ, gợi nhớ đến những lời nhắc nhở về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, diễn ra vì các ngân hàng gộp các khoản nợ xấu thành các sản phẩm chứng khoán và bán chúng cho các nhà đầu tư.
Các khoản nợ xấu (NPL)—các khoản cho vay mà người đi vay không có khả năng hoàn trả—đã có mức tăng đáng chú ý trong năm ngoái, đặc biệt là trong lĩnh vực địa ốc, nơi tỷ lệ nợ xấu đã tăng từ 2.8% vào cuối năm 2022 lên 4.99% vào cuối năm 2023. Các ngân hàng lớn như Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC) đã chứng kiến nợ xấu từ vay thế chấp nhà ở tăng 9.6%. Sự gia tăng mạnh những khoản nợ khó trả trong lĩnh vực địa ốc đặc biệt gây lo ngại do tỷ trọng đáng kể của lĩnh vực địa ốc, chiếm khoảng 20% nền kinh tế Trung Quốc và hơn ¼ số khoản vay do các ngân hàng lớn nắm giữ.
Đồng thời, tỷ lệ tổng nợ xấu trên tất cả các ngành chỉ ở mức 1.6%, cao hơn một chút so với mức 1.4% của Hoa Kỳ nhưng phù hợp với nhiều nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, hệ thống phân loại nợ ngân hàng của Trung Quốc che giấu đi mức độ thực sự của những rắc rối cho vay tiềm ẩn. Các khoản nợ cần chú ý được xem là rủi ro hơn các khoản nợ thông thường, nhưng vẫn chưa được phân loại là nợ xấu. Ở các quốc gia khác, do có các tiêu chí chặt chẽ hơn, thì một số khoản nợ cần chú ý này có thể được phân loại là nợ xấu. Sự khác biệt trong cách phân loại này dẫn đến một tình huống là tổng nợ xấu mà Trung Quốc báo cáo có vẻ thấp hơn tình hình chân thực. Nhóm các khoản nợ cần chú ý ở Trung Quốc có thể báo hiệu một kho chứa các khoản nợ xấu tiềm ẩn trong tương lai, gây ra rủi ro lớn hơn cho hệ thống ngân hàng.
Các ngân hàng Trung Quốc đã kết thúc năm (2023) khi giữ trong tay 620 tỷ USD nợ cần chú ý. Với việc áp dụng các hướng dẫn mới về tính minh bạch, nhiều khoản nợ cần chú ý sẽ cần được phân loại lại thành nợ xấu, khiến tỷ lệ nợ xấu tăng cao.
Do đó, tỷ lệ tổng tài sản kém hiệu quả, bao gồm các khoản nợ xấu và các tài sản khác như nhà đất bị thu hồi, dự kiến sẽ chạm mức từ 5.5% đến 5.9%.
Sự gia tăng nợ xấu và các khoản nợ cần chú ý có thể là do nhiều yếu tố khác nhau. Tăng trưởng kinh tế chậm lại của Trung Quốc khiến người đi vay khó trả nợ hơn, trong khi doanh số bán nhà yếu cản trở khả năng thu hồi vốn đầu tư của các nhà phát triển. Tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên gia tăng và hôn nhân chậm trễ góp phần làm giảm doanh số bán nhà và chi tiêu của người tiêu dùng. Thêm vào đó, tình trạng không chắc chắn phát sinh từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung làm giảm hoạt động đầu tư và vay mượn của doanh nghiệp. Khiến vấn đề tồi tệ thêm, các điều kiện tín dụng chặt chẽ hơn do chính quyền trung ương áp đặt để kiểm soát mức nợ đang càng làm hạn chế hơn nữa khả năng tiếp cận khoản vay đối với một số người có nhu cầu.
Sự tập trung đáng kể của nợ xấu và các khoản vay nợ cần chú ý trong lĩnh vực địa ốc khiến rủi ro gia tăng đối với các ngân hàng Trung Quốc. Nếu người đi vay không trả được nợ và ngân hàng phải dùng đến biện pháp tịch thu tài sản thế chấp, thì các ngân hàng có thể phải gánh chịu thua lỗ trong bối cảnh thị trường suy thoái. Khi thu hồi được ít khoản nợ hơn, các ngân hàng sẽ có ít vốn hơn để cho vay. Các ngân hàng có thể sẽ trở nên thận trọng hơn trong việc cho vay lĩnh vực địa ốc, làm hạn chế nguồn vốn cho các dự án phát triển mới. Tình trạng này cũng có nghĩa là Bắc Kinh không thể sử dụng lĩnh vực phát triển địa ốc để thoát khỏi tình trạng suy thoái kinh tế hiện nay.
Để giải quyết vấn đề này, chính quyền trung ương đã chỉ thị cho các ngân hàng chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Việc chứng khoán hóa nợ về căn bản sẽ chia các khoản nợ xấu thành các loại rủi ro khác nhau (chẳng hạn như rủi ro cao, trung bình, và thấp). Những nhóm nợ này được gộp chung thành các sản phẩm tài chính và được bán cho các nhà đầu tư. Nợ xấu có thể được chứng khoán hóa thành trái phiếu, chứng khoán có bảo đảm bằng nợ thế chấp (MBS), chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản (ABS), nghĩa vụ nợ được cầm cố (CDO), hoặc thậm chí là các sản phẩm phái sinh. Việc phát hành chứng khoán bảo đảm bằng các khoản nợ xấu của các ngân hàng Trung Quốc dự kiến sẽ tăng khoảng 40% trong năm nay, với việc các tổ chức cho vay giảm bớt các khoản nợ thế chấp khó thu hồi, nợ thẻ tín dụng quá hạn, và các khoản nợ tiêu dùng khó trả.
Lợi ích của việc chứng khoán hóa nợ là các ngân hàng có thể thu hồi một phần tiền mặt mà họ đã cho vay. Chứng khoán hóa nợ cũng phân phối được rủi ro cho nhiều nhà đầu tư mua chứng khoán. Tuy nhiên, biện pháp này không loại bỏ được các khoản nợ xấu hoặc các vấn đề tiềm ẩn trong nền kinh tế Trung Quốc vốn khiến người đi vay rơi vào tình trạng vỡ nợ. Một mối lo ngại khác về chứng khoán hóa nợ là biện pháp này làm nghiêm trọng thêm các vấn đề thiếu minh bạch hiện hữu trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc. Một khi các khoản nợ được chứng khoán hóa và bán đi, thì việc theo dõi và định lượng tỷ lệ nợ xấu hoặc rủi ro thực tế mà các ngân hàng gặp phải sẽ trở nên gần như bất khả thi, và việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình hình nền kinh tế dựa trên tỷ lệ phần trăm những cá nhân không thể trả được khoản vay của họ cũng vậy.
Phân phối rủi ro có vẻ là một ý tưởng hay, nhưng hành động này có thể dẫn đến tình trạng lây lan. Chứng khoán bảo đảm bằng nợ xấu có rủi ro cao do nguy cơ người đi vay bị vỡ nợ. Kịch bản này tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nơi các chứng khoán được bảo đảm bằng nợ thế chấp nhà ở được tạo ra từ nhiều nhóm các khoản nợ thế chấp nhà ở dưới chuẩn—các khoản cho vay mua nhà được cung cấp cho những người đi vay không đủ khả năng chi trả. Những chứng khoán này sau đó đã được bán cho những nhà đầu tư đã đánh giá thấp những rủi ro liên quan.
Bong bóng thị trường nhà đất cuối cùng đã vỡ, khiến giá địa ốc sụt giảm. Do đó, số vụ vỡ nợ trong các khoản nợ thế chấp nhà dưới chuẩn tăng mạnh, khiến giá trị chứng khoán bảo đảm bằng nợ thế chấp nhà ở giảm mạnh. Thông qua việc chứng khoán hóa các khoản nợ thế chấp và bán các chứng khoán này cho các nhà đầu tư, rủi ro được chuyển từ lĩnh vực ngân hàng sang các lĩnh vực khác của nền kinh tế, chẳng hạn như quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, và các nhà đầu tư cá nhân, cả lớn và nhỏ.
Tóm lại, nền kinh tế Trung Quốc rõ ràng đang chậm lại. Điều này thể hiện rõ qua việc doanh số bán hàng tiêu dùng và nhà ở giảm sút, cũng như tình trạng vỡ nợ ngày càng tăng. Bất chấp việc Đảng Cộng sản Trung Quốc có cách tiếp cận giải quyết tỷ lệ nợ xấu trên giấy tờ như thế nào, thì các nguyên nhân căn bản vẫn tồn tại, từ xuất cảng và hoạt động nhà máy giảm sút đến khủng hoảng già hóa dân số, bong bóng nợ, và giảm đầu tư trực tiếp ngoại quốc. Cố gắng che giấu bằng chứng sẽ không giải quyết được căn nguyên đằng sau vấn đề.
Vân Du biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times