Kế hoạch thâm nhập sâu rộng vào khuôn viên các trường đại học Mỹ của ĐCSTQ
Các chuyên gia và nhà vận động chính sách cảnh báo rằng Trung Quốc đang đẩy nhanh các nỗ lực thâm nhập vào các trường đại học tại Hoa Kỳ nhằm tiếp cận các nghiên cứu có giá trị và định hình tư tưởng của thế hệ các nhà lãnh đạo tư tưởng Mỹ tiếp theo.
Mối liên kết giữa các trường đại học Mỹ và Trung Quốc đã thu hút nhiều sự chú ý trong những năm gần đây, đặc biệt là các Viện Khổng Tử do Bắc Kinh tài trợ bị cáo buộc đang tiến hành lan truyền tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và đàn áp tự do học thuật. Đồng thời, các thông tin tiết lộ từ năm 2014 đến 2020 cho thấy các trường đại học đã nhận hơn 1.5 tỷ USD dưới dạng quà tặng và hợp đồng từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, những ví dụ này chỉ là một phần nhỏ của một chiến dịch đa chiều [từ Bắc Kinh] nhằm khuynh đảo các viện đại học, nơi nuôi dưỡng các tinh anh tri thức và công nghệ của Mỹ.
Ông John Metz, chủ tịch Viện Athenai, một tổ chức bất vụ lợi do sinh viên thành lập nhằm xóa bỏ ảnh hưởng của ĐCSTQ đối với các trường đại học, cho biết: “ĐCSTQ xem tinh thần cởi mở của các trường đại học hàng đầu của chúng ta như là một thứ vũ khí để chống lại chúng ta.”
Ông Metz nói với The Epoch Times trong một thư điện tử: “ĐCSTQ sử dụng hoạt động gián điệp và ảnh hưởng tài chính của họ đối với các trường đại học không chỉ để kiểm soát diễn ngôn và kiểm duyệt những lời phê bình đối với họ, mà còn để chiếm lĩnh công nghệ tối tân họ cần nhằm mở rộng sức mạnh quân sự, thực hiện được các chính sách diệt chủng của mình.”
Tuy vậy, các hoạt động gây ảnh hưởng của Trung Quốc nhắm đến các trường đại học chỉ là một khía cạnh trong các nỗ lực toàn cầu của ĐCSTQ nhằm khuynh đảo mọi khía cạnh của xã hội phương Tây, làm lợi cho chính quyền cộng sản. Và bởi vì Đảng Cộng sản muốn tiếp quản vị trí của Hoa Kỳ để trở thành siêu cường duy nhất trên toàn cầu, nên Hoa Kỳ là trọng tâm chủ yếu cho các hoạt động của nhà cầm quyền này.
Ông Metz nói: “Theo đúng nghĩa đen, việc ĐCSTQ tiếp cận vào các trường đại học của chúng ta đã gây nguy hiểm cho cuộc sống của người dân Mỹ.”
“ĐCSTQ nhắm đến những người trẻ vì họ muốn kiểm soát tư tưởng của thế hệ lãnh đạo tiếp theo. Chúng ta không chỉ có nguy cơ bị đánh bại ở hiện tại, mà còn trong tương lai.”
Dập tắt các tiếng nói bất đồng
Phần lớn các hoạt động gây ảnh hưởng của Trung Quốc tại các trường đại học Mỹ bao gồm việc kiểm soát công luận về ĐCSTQ. Hoạt động này luôn luôn bao gồm việc bịt miệng những người lên tiếng chống lại chế độ và sự lạm dụng của Đảng.
Để đạt được mục đích này, các sinh viên quốc tế từ Trung Quốc và các hội sinh viên Trung Quốc đều bị biến thành công cụ để nhà cầm quyền này có thể đàn áp các tiếng nói bất đồng trong khuôn viên trường. Qua nhiều năm, đã có vô số vụ việc mà các nhóm sinh viên Trung Quốc có liên hệ với lãnh sự quán đã thành công hoặc đã có hành động trấn áp các ý kiến chỉ trích Đảng tại các trường đại học Mỹ.
Ông Se Hoon Kim, giám đốc Liên minh các Quốc gia Bị giam cầm thuộc Ủy ban về Mối nguy hiểm Hiện nay: Trung Quốc, một tổ chức vận động đại diện cho các nhóm bị ĐCSTQ biến thành nạn nhân, nói rằng: “Theo tôi, thế hệ sinh viên quốc tế mới đến từ Trung Quốc dường như có tinh thần dân tộc cao hơn rất nhiều so với những người tôi từng gặp ở đại học.”
Khi nhắc đến tinh thần dân tộc, ông Kim có ý nói rằng những sinh viên này xem bất cứ điều gì chỉ trích ĐCSTQ là phản quốc.
Theo ông Kim, nếu quý vị nói chuyện với các sinh viên Trung Quốc trong khuôn viên các trường Đại học Mỹ về ĐCSTQ, nhìn chung họ sẽ nói là, “Đảng là nhân dân và chúng tôi là Đảng” — một đường lối tuyên truyền được ĐCSTQ nhiều lần ca tụng mà theo đó ĐCSTQ tuyên bố họ là đại diện duy nhất của Trung Quốc và người dân Trung Quốc.
Ông Kim nói: “Nếu quý vị có những người như thế đang có mặt khắp các trường đại học Mỹ, tham gia vào các lớp học thường nhật và các hoạt động thường nhật của trường đại học, thì những gì thường hay xảy ra là bất kỳ loại thảo luận nào chỉ trích Đảng Cộng sản Trung Quốc đều thực sự gặp nguy hiểm.”
Trong một bài diễn văn hồi đầu năm, Giám đốc FBI Christopher Wray đưa ra một ví dụ về cách chính quyền Trung Quốc đe dọa và sách nhiễu sinh viên tại các trường đại học Mỹ chỉ vì họ thực thi quyền tự do ngôn luận của mình.
Ông nói: “Trong một vụ việc gần đây tại một trường đại học ở miền Trung Tây, một sinh viên người Mỹ gốc Hoa đã đăng một bài viết trực tuyến ca ngợi các sinh viên bị sát hại trong cuộc thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn hồi năm 1989. Và gần như ngay lập tức, cha mẹ cậu ấy gọi điện cho cậu từ Trung Quốc, nói rằng các quan chức tình báo Trung Quốc đã đến tận nhà để đe dọa họ chỉ vì bài viết của cậu.”
Ông Wray đang nói về một vụ việc hồi năm 2020 mà anh Khổng Chí Hào (Kong Zhihao), một sinh viên Trung Quốc tại Đại học Purdue ở tiểu bang Indiana, gần đây bị các sinh viên Trung Quốc khác ở ngôi trường này cáo buộc là một “Đặc vụ CIA.” Vì sự sách nhiễu từ ĐCSTQ, nên anh Khổng đã miễn cưỡng hủy bỏ một bài nói dự định sẽ đọc trong một sự kiện tưởng niệm cuộc thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn.
Anh Khổng nói với tổ chức bất vụ lợi ProPublica: “Tôi nghĩ rằng một số sinh viên Trung Quốc ở trường tôi là Đảng viên. Tôi có thể nói rằng họ không chỉ đơn thuần là sinh viên. Họ có thể là gián điệp hoặc là người mật báo.”
Các Viện Khổng Tử chỉ đơn giản là đổi tên thương hiệu
Viện Khổng Tử, các trung tâm ngôn ngữ được Bắc Kinh tài trợ bị chỉ trích là các trung tâm tuyên truyền, đã vấp phải phản đối đáng kể trong những năm gần đây, dẫn đến việc phải đóng cửa 104/118 trung tâm trên khắp các trường đại học và cao đẳng Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, trong một báo cáo hồi tháng Sáu, Hiệp hội Học giả Quốc gia (NAS) cho biết việc đóng cửa này chỉ dẫn đến đổi tên thương hiệu cho các chương trình. Báo cáo này cho biết, kể từ đó những chương trình tương tự như Viện Khổng Tử đã nổi lên dưới những tên gọi khác hoặc dưới các hình thức khác.
Nhìn chung, các trường đại học rất sẵn sàng thay thế Viện Khổng Tử bằng một chương trình tương đương. Theo báo cáo trên, ngoài việc đóng cửa, 28 trường đã có chương trình tương tự thay thế, 58 trường vẫn giữ mối liên hệ mật thiết với các đại học đối tác của Viện Khổng Tử trước đây, năm trường vẫn giữ lại Viện Khổng Tử bằng cách bàn giao trung tâm này cho một bên khác quản lý.
Báo cáo cho biết, sau khi đóng cửa các viện này, một vài trường đại học chủ trì bị yêu cầu hoàn trả lại tiền cho chính quyền Trung Quốc. Trong một số trường hợp, số tiền hoàn trả đó vượt quá 1 triệu USD.
Hoạt động gián điệp
Việc Trung Quốc đánh cắp nghiên cứu và công nghệ từ các trường đại học Mỹ là một cuộc công kích trực tiếp vào vai trò lãnh đạo đổi mới của Mỹ. Gần đây, lại có nhiều ồn ào về việc đánh cắp công nghệ nhạy cảm, thêm một góc độ khác vào việc Trung Quốc can thiệp vào các trường đại học ở Hoa Kỳ.
Ủy ban An ninh Quốc gia về Trí tuệ Nhân tạo (NSCAI), do cựu Giám đốc điều hành Google Eric Schmidt đứng đầu, năm ngoái đã bỏ phiếu đồng thuận thông qua báo cáo cuối cùng (pdf) của ủy ban này trước Quốc hội, khuyến nghị các trường đại học Mỹ thực hiện các bước để ngăn chặn hành vi trộm cắp công nghệ nhạy cảm của quân đội Trung Quốc.
Báo cáo chỉ ra: “Trên một sân chơi bình đẳng, Hoa Kỳ có năng lực đổi mới cao hơn bất kỳ đối thủ nào. Tuy nhiên, ngày nay, có một điểm khác biệt căn bản giữa cách mà Trung Quốc và Hoa Kỳ tiếp cận với sự đổi mới về trí tuệ nhân tạo (AI) mà có thể đặt vai trò lãnh đạo lĩnh vực AI của Mỹ vào nguy hiểm.” Báo cáo cũng cho biết thêm rằng, không như Trung Quốc, mô hình đổi mới của Hoa Kỳ vốn dựa vào việc cởi mở trao đổi ý tưởng, các thị trường tự do, và sự can thiệp hạn chế của chính phủ.
Nội dung trong báo cáo ghi: “Trung Quốc đang thi hành một kế hoạch có hệ thống được chỉ thị từ trung ương nhằm khai thác kiến thức về trí tuệ nhân tạo từ ngoại quốc thông qua hoạt động gián điệp, tuyển dụng nhân tài, chuyển giao công nghệ, và đầu tư. ĐCSTQ có các kế hoạch đầy tham vọng nhằm xây dựng và đào tạo một thế hệ kỹ sư trí tuệ nhân tạo mới trong các trung tâm trí tuệ nhân tạo mới.”
Theo báo cáo này, thời Chiến tranh Lạnh, cuộc cạnh tranh công nghệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô được thể hiện thông qua các chương trình nghiên cứu và phát triển tách rời nhau. Tuy nhiên, trong một thế giới liên kết chặt chẽ với nhau ngày nay, cuộc cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc phức tạp hơn vì hệ sinh thái nghiên cứu của cả hai quốc gia kết nối sâu sắc với nhau thông qua các dự án nghiên cứu chung, lưu thông nhân tài, và các liên kết thương mại bao gồm chuỗi cung ứng, thị trường, liên doanh nghiên cứu.
Nhận thức ngày càng tăng về mối đe dọa đánh cắp công nghệ nổi lên giữa nhiệm kỳ của chính phủ cựu Tổng thống Trump. Đây là nhiệm kỳ đã khởi động chương trình Sáng kiến Trung Quốc, một chương trình của Bộ Tư pháp nhằm đánh bại gián điệp kinh tế và những hành động xấu khác từ chính quyền cộng sản Trung Quốc.
Hàng chục nhà nghiên cứu hoặc học giả của Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ đã bị truy tố hoặc bị kết án theo sáng kiến này, với các tội danh từ đánh cắp bí mật thương mại cho đến gian lận.
Cuối năm ngoái (2021), cựu chủ nhiệm khoa hóa của Đại học Harvard Charles Lieber đã bị một bồi thẩm đoàn kết tội nói dối trước các cơ quan liên bang về mối liên hệ của ông với Kế hoạch Ngàn nhân tài, đây là kế hoạch tuyển dụng nhân tài của chính quyền Trung Quốc bị cáo buộc tạo điều kiện chuyển giao bí quyết của Hoa Kỳ cho Trung Quốc.
Tuy nhiên, hồi tháng Hai năm nay, chính phủ Tổng thống Biden đã chấm dứt Sáng kiến Trung Quốc giữa các cáo buộc phân biệt chủng tộc. Vào thời điểm đó, Phụ tá Tổng chưởng lý đặc trách Bộ phận An ninh Quốc gia Matthew Olsen cho biết mặc dù một cuộc rà soát nội bộ không phát hiện được thiên kiến chủng tộc trong cách tiếp cận của Bộ Tư pháp, nhưng chương trình này đã bị buộc dừng lại vì lo ngại về một nhận thức về thiên kiến.
Trợ cấp từ Trung Quốc
Ông Ian Oxnevad, một nhà nghiên cứu chương trình với Hiệp hội Học giả Quốc gia và là một trong những tác giả của báo cáo đề cập bên trên về các Viện Khổng Tử, nói với The Epoch Times rằng các hoạt động gây ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các trường đại học của Hoa Kỳ là tương thích với mục tiêu của ĐCSTQ là trở thành một siêu cường trên toàn cầu.
Ông Onevax cho biết, “Một phần của chiến lược khổng lồ của Trung Quốc không chỉ nhằm đánh cắp các bí mật liên quan đến kinh tế và an ninh, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ trên khắp thế giới, mà còn nhằm định hình cách thế giới nhìn nhận về Trung Quốc.” Điều này có nghĩa là, những cuộc thảo luận về các chủ đề như vi phạm nhân quyền, cuộc thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn, và [các chiến dịch chính trị] tàn bạo như Đại Nhảy Vọt sẽ tiếp tục bị kiểm duyệt. Mối lo ngại này đã đưa một sự tranh cãi gay gắt hơn về việc Trung Quốc tài trợ cho các trường đại học của Hoa Kỳ.
Ông Metz cho biết nguồn tài trợ từ Trung Quốc là “nguồn tài trợ khổng lồ” dành cho các trường đại học. Các nguồn tiền này rất hấp dẫn bởi vì nhìn bề ngoài thì nó được trao tặng miễn phí và cần phải giải quyết tận gốc bằng cách ngăn chặn các trường đại học nhận những nguồn tài trợ như vậy.
Ông chỉ ra Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) là một ví dụ cho thấy nguồn tiền của Trung Quốc chảy vào các trường đại học Mỹ. Theo một báo cáo năm 2020 của Bộ Giáo dục, trường đại học này nhận khoản đóng góp lên đến hơn 100 triệu USD từ nhiều nguồn của Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
Năm ngoái, bà Michelle Bethel, một thành viên hội đồng quản trị của Viện Nghiên cứu về Não bộ McGovern thuộc trường MIT, đã từ chức vì các lo ngại về đạo đức liên quan đến các mối liên hệ đối tác của viện này với các cơ quan nghiên cứu của Trung Quốc.
Bà Bethel viết trong một bài bình luận đăng trên nhật báo Wall Street Journal giải thích về quyết định từ chức rằng, “Bằng việc thực hiện nghiên cứu với các viện ở Trung Quốc, Viện McGovern có thể vô tình tiếp tay cho bộ máy an ninh chuyên trấn áp hoặc cho quân đội của nước này, mà các sĩ quan trong lực lượng Trung Quốc đã từng phát hành những bài báo nói rằng sinh học là một lĩnh vực chiến tranh mới.”
Bà viết: “Tôi lo ngại về cách Bắc Kinh có thể đang sử dụng những phát hiện của chúng ta vốn dĩ đã bị bác bỏ vì [lý do] phân biệt chủng tộc hoặc mang tính chính trị.”
Với ông Metz, sự hợp tác giữa các trường đại học Mỹ và các tổ chức tại Trung Quốc cũng như mối liên kết về tài chính của các trường này với Trung Quốc là một tình huống nan giải.
Ông nói: “Đòn bẩy tài chính rộng lớn đó tạo ra một động cơ khiến các trường đại học như MIT nhắm mắt làm ngơ khi ĐCSTQ chà đạp nhân quyền và đe dọa an ninh quốc gia của Hoa Kỳ.”
Một phát ngôn viên của trường MIT nói với The Epoch Times rằng MIT “có những quy trình nghiêm ngặt để đánh giá và quản lý các rủi ro của việc nghiên cứu có liên hệ với các quốc gia khác, trong đó có Trung Quốc, những bên có hành vi ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và an ninh kinh tế của Hoa Kỳ.”
Trước đó, để phản hồi về bài bình luận của bà Bethel, trường MIT đã ban hành một tuyên bố chung do ông Robert Desimone, giám đốc Viện Nghiên cứu Não bộ McGovern, bà Nergis Mavalvala, trưởng khoa Khoa học của trường MIT, và bà Maria T. Zuber, phó chủ tịch đặc trách nghiên cứu của trường, chấp bút.
Các vị này nói rằng trong hàng chục dự án nghiên cứu tại Viện McGovern, chỉ có một dự án về phát triển các phương pháp điều trị cho các dạng tự kỷ hoặc rối loạn thần kinh là nghiên cứu cùng Trung Quốc, và trường MIT không nhận một khoản tiền nào từ Trung Quốc cho dự án này.
Tuyên bố này cho biết, “Mọi hoạt động nghiên cứu chung được đề nghị mà có sự tham gia của một tổ chức hoặc nhận nguồn tài trợ từ Trung Quốc, sau khi được đánh giá về tính tuân thủ pháp luật và quy định của Hoa Kỳ, sẽ được rà soát thêm bởi một ủy ban gồm những người điều hành cao cấp nhằm cân nhắc các rủi ro về an ninh quốc gia, tính cạnh tranh kinh tế, các dân quyền và nhân quyền.”
Hoa Kỳ nên làm gì?
Câu hỏi cho rằng Hoa Kỳ nên phản ứng thế nào trước sự can thiệp của Trung Quốc vào các trường đại học của Hoa Kỳ đã nhận được nhiều khuyến nghị từ các chuyên gia, từ việc cắt giảm tài trợ liên bang dành cho các trường đại học có mối liên hệ đối tác với Trung Quốc cho đến việc tiến tới chia sẻ thông tin với các quốc gia có cùng lập trường.
Ông Greg F. Treverton, một giáo sư tại Đại học Southern California và là cựu chủ tịch Hội đồng Tình báo Quốc gia Hoa Kỳ, nói với The Epoch Times rằng các vụ việc mà theo đó ĐCSTQ cố gắng kiểm duyệt sự chỉ trích trong khuôn viên các trường đại học tại Hoa Kỳ là “không thường xuyên, đáng lo ngại, nhưng không đáng để xóa bỏ sự hợp tác” với Trung Quốc.
Ông nói thêm: “Tôi cho rằng có hai loại hợp tác nên được đẩy mạnh thêm, cần phải có sự hợp tác ngày càng rõ ràng hơn giữa các trường đại học và chẳng hạn như, FBI.” Ông Treverton cho rằng những sự hợp tác dạng này không đến một cách “tự nhiên” vì nhìn chung thì có nhiều người trong các trường đại học hoài nghi về chính phủ.
Loại hợp tác thứ hai là hợp tác giữa Hoa Kỳ và “những bằng hữu trên khắp thế giới,” ví dụ như nước Úc, một đất nước được nhiều sinh viên quốc tế người Trung Quốc lựa chọn. Ông Treverton nói rằng điều này là quan trọng bởi vì nếu Hoa Kỳ đóng cửa với sinh viên Trung Quốc, thì họ sẽ đi đến các nước khác.
Ông nói: “Chúng ta có thể chia sẻ thông tin về những gì đã diễn ra với nhiều quốc gia khác, bằng các mối liên hệ với Trung Quốc, các nhà chức trách Trung Quốc, và các sinh viên nước này.”
Báo cáo của Hiệp hội Học giả Quốc gia khuyến nghị rằng, trong ngắn hạn, chính phủ liên bang nên sửa đổi Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng để nhắm mục tiêu tới các chương trình thay thế Viện Khổng Tử, và nên đặt ra “các giới hạn mới đối với các nguồn tài trợ liên bang khác dành cho các tổ chức duy trì một [Viện Khổng Tử] hoặc một chương trình tương tự.”
Về dài hạn, báo cáo trên nói rằng các nhà chức trách nên áp thuế đối với các khoản tài trợ và các hợp đồng mà các viện đại học ở Hoa Kỳ nhận được, đồng thời đưa ra các biện pháp khác để xây dựng tính minh bạch trong các quá trình tài trợ.
Điều này sẽ đặt ra giới hạn “số tiền tài trợ từ Trung Quốc mà một trường cao đẳng hoặc một trường đại học có thể nhận được trước khi ảnh hưởng đến điều kiện nhận tài trợ liên bang, và cấm tài trợ cho các trường đại học và cao đẳng thiết lập mối liên kết đối tác với các trường đại học Trung Quốc có tham gia vào chiến lược hợp nhất quân sự-dân sự của Trung Quốc,” báo cáo cho biết.
Ông Metz đến từ Viện Athenai nói rằng, lần đầu tiên, ông bắt đầu chứng kiến sự thay đổi từ những trường đại học đó, và bắt đầu cân nhắc lại các khoản đầu tư của họ vào Trung Quốc.
Ông nói: “Các trường đại học như CUA [Đại học Công giáo Hoa Kỳ] và trường Yale đã điều tra về mối liên hệ giữa các khoản hiến tặng và nạn diệt chủng người Duy Ngô Nhĩ; những trường khác, như Harvard, đang thu hồi các khoản đầu tư này một cách lặng lẽ hơn.”
Ông Metz nói rằng, “Vào cuối niên khóa 2022-23, chúng tôi dự đoán sẽ có nhiều trường khác bắt đầu từ bỏ các khoản hiến tặng này với tốc độ tăng nhanh chóng.” Ông nói thêm rằng, lãnh đạo của các trường đại học hàng đầu, trong đó có các quỹ tín thác và những người quản lý, đã tìm đến Viện Athenia để được tư vấn cách họ giảm thiểu sự tiếp xúc với các tác nhân tệ hại nhất ở Trung Quốc.
Viện Athenia dự định sẽ đưa ra một công cụ trực tuyến mới và có tính tương tác để giúp các sinh viên, các nhà hoạch định chính sách, và các bên liên quan bắt đầu đo lường mức độ liên quan của trường họ với Trung Quốc.
Thiên Thư biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc tại The Epoch Times