Hương thơm giúp thân tâm an hòa! Đời sống thanh nhã của người xưa
Đối mặt với xã hội hiện đại đủ loại ồn ào và phiền não, chúng ta hãy cùng nhau tìm kiếm con đường khiến thân tâm an hòa trong văn hóa truyền thống cổ xưa.
Trong cuộc sống hiện đại, mỗi người chúng ta đều phải chịu áp lực rất lớn, vì vậy mong muốn tìm một phương pháp thả lỏng thể xác và tinh thần. Có nhiều người đã tìm đến “Liệu pháp hương thơm“, chính là sử dụng hương thơm thực vật để giúp cho thân tâm khỏe mạnh. Vậy, loại phương pháp này có nguồn gốc văn hóa phía sau như thế nào?
Trên thực tế, liệu pháp hương thơm thuộc về loại vận dụng thực vật thân thảo. Trong văn hóa Trung Quốc, vận dụng thực vật thân thảo bắt đầu từ lúc Thần Nông nếm bách thảo, còn có một cuốn sách “Thần Nông bản thảo kinh”, trong đó ghi chép rất nhiều cách vận dụng thực vật. Đến thời Minh, Lý Thời Trân biên soạn “Bản thảo cương mục”, trong sách ghi chép hơn 2,000 loại dược liệu, hơn 8,000 cách điều phối.
Trong “Bản thảo cương mục” cũng ghi chép rất nhiều hương liệu để ứng dụng trong việc dưỡng sinh, ví dụ như trầm hương: “Ấm mà không khô, đi mà không tiết… Có công dụng phục khí, không có điều hại phá khí…”, ý là: Trầm hương lúc đốt lên phát ra hương thơm, có thể điều tiết vận hành khí trong cơ thể người, làm cho khí trong lòng trở nên bình hòa, khiến cho người ta tiến vào một loại trạng thái an định, thoải mái. Ngoài hương liệu này, còn có rất nhiều loại khác như huệ lan, ngải thảo, đinh hương .v.v.
Nhiều loại hương liệu như thế, cổ nhân sử dụng hương thơm của những thực vật này như thế nào?
1. Tế tự
Huân hương (hương liệu đốt lên thì gọi là huân hương) đầu tiên là dùng trong tế tự, rất nhiều phong tục văn hóa Trung Quốc đều có nguồn gốc từ Phật gia, Đạo gia. Từ trong rất nhiều hội họa, chúng ta có thể thấy hình ảnh cổ nhân đốt hương tế bái Thần minh. Ví như mùng bảy tháng bảy là tiết “khất xảo” trong nhân gian, tương truyền trong ngày này, Ngưu Lang và Chức Nữ sẽ gặp gỡ nhau; trong ngày này, nữ tử dân gian cũng sẽ bày bàn án ở dưới ánh trăng, rồi mang lên lư hương, trái cây, tế bái dưới trăng, hy vọng Thần minh giáng phúc để mình trở nên thông minh khéo léo, giỏi việc thêu thùa. Ngoài ra, trong sách “Thiên thu tuyệt diễm đồ” thời Thanh, có một bức miêu tả cảnh Thôi Oanh Oanh đốt hương dưới trăng, còn có cảnh Điêu Thuyền đốt hương bái nguyệt .v.v.
Đã đốt hương thì sẽ có lư hương. Tất nhiều lư hương ở các thời kỳ khác nhau đã được tìm thấy trong khảo cổ. Hiện nay, phát hiện sớm nhất là lư hương hình dạng Bác Sơn thời nhà Hán. Tại sao gọi nó là Bác Sơn? Bởi vì Bác Sơn tương truyền là tòa núi tiên ở phía đông trên biển. Trên đỉnh lư hương Bác Sơn có hình một ngọn núi, khi thắp hương bên trong thì ngọn núi trên đỉnh lư hương liền bị khói thuốc lượn lờ bao quanh, từ xa nhìn lại tựa như là một tòa núi thần tiên vậy.
2. Phẩm hương
Bởi vì mùi thơm huân hương vô cùng thanh khiết, cho nên rất tốt để cho người ta tĩnh tâm dưỡng thần. Từ đó, huân hương càng lúc càng dung nhập vào cuộc sống sinh hoạt của con người, chúng ta có thể nhìn thấy cảnh cổ nhân lúc gảy đàn, đọc sách, làm thơ, hay tĩnh tọa, đều sẽ đốt hương.
Ví như trong “Thính cầm đồ” của Tống Huy Tông, chúng ta có thể nhìn thấy bên cạnh người đang gảy đàn đặt một bàn án, trên bàn án đặt một lư hương. Ngoài ra trong “Bá Nha cổ cầm đồ” cũng có thể nhìn thấy, bên cạnh Bá Nha, trên bàn án đặt một lư hương Bác Sơn, trong lư Bác Sơn đang đốt hương.
Tại sao cổ nhân thường đem việc đánh đàn và đốt hương kết hợp với nhau? Kỳ thực, cổ nhân đánh đàn không phải là vì để tiếng đàn nghe êm tai, mà chủ yếu là vì để cho lòng của mình trở nên thanh tĩnh. “Đánh đàn không phải tại êm tai, chủ tại thanh tâm”, và đốt hương cũng là mục đích này, hương có thể điều hòa khí tức, khiến cho người ta trở nên bình hòa yên tĩnh.
Qua bài thơ “Phần hương” [Đốt hương] của Trần Dữ Nghĩa thời Bắc Tống, chúng ta có thể cảm thụ được điều này:
“Minh song diên tĩnh thư, Mặc tọa tiêu trần duyên, Tức tương vô hạn ý, Ngụ thử nhất chú yên”
(Tạm dịch nghĩa: Cửa sổ sáng đèn lặng đọc sách, Trầm mặc ngồi đó tiêu trần duyên, Đương lúc có được vô hạn ý, Cũng nhờ trụ khói đốt hương này).
Đến thời nhà Tống, phẩm hương phát triển rất phồn thịnh, người ta xem bốn việc: thưởng thức trà, cắm hoa, treo tranh, đốt hương, là việc tao nhã của văn nhân.
Thời Đường, thời điểm hòa thượng Giám Chân đến Nhật Bản, ông đã mang theo rất nhiều văn hóa, sau khi tập tục đốt hương được truyền đến Nhật Bản, thì tại đây nó đã phát triển thành hương đạo. Những năm này, hương đạo từ Nhật Bản truyền về đến Trung Quốc, đốt hương lại dần dần đi vào cuộc sống của người dân. Có lẽ bởi vì xã hội càng ồn ào càng phức tạp, thì con người càng cần một vài phương pháp có thể giúp cho thân tâm được an tĩnh.
3. Hương khuê
Ngoài phẩm hương, phòng của nữ tử thời xưa tại sao gọi là hương khuê? Nữ tử thời xưa đều có huân hương trong phòng của mình, hương này từ đâu mà có?
Từ thi từ của Lý Thanh Chiếu, chúng ta có thể thấy được loại huân hương này trong đời sống. Trong bài “Túy hoa âm”, bà viết: “Bạc vụ nồng vân sầu vĩnh trú, thoại não tiêu kim thú”. “Kim thú” là chỉ một loại lư hương hình thú, câu thơ này là nói một loại hương long não trong lư hình thú khói lượn lờ bao quanh.
Trong “Phượng Hoàng đài thượng ức xuy tiêu”, Lý Thanh Chiếu còn viết rằng: “Hương lãnh kim nghê, bị phiên hồng lãng, khởi lai dong tự sơ đầu”. Nghê là một loại động vật có hình dạng giống sư tử, kim nghê là chỉ lư hương đúc bằng đồng có hình giống sư tử. Ý nghĩa câu thơ này nói về huân hương trong lư bằng đồng có hình giống sư tử, hương đã đốt xong, bấy giờ hương đã lạnh rồi, lúc này thi nhân mới lười biếng dậy trang điểm.
Ngoài lư hương, còn có lồng đốt, chính là lồng bằng trúc bao quanh bên ngoài lư hương, nó không chỉ có tác dụng thắp hương mà còn có thể sưởi ấm.
Ngoài ra, giường của người xưa bốn phía đều sẽ có màn che, cho nên trong màn sẽ treo một ít túi thơm, hoặc là loại huân hương ưa thích. Vì vậy, lúc đang ngủ cũng có thể cảm nhận được hương thơm thoang thoảng. Nếu như ngủ không ngon giấc, có thể thả một ít cỏ hương xông quần áo để giúp mọi người có một giấc ngủ ngon. Ngẫm lại, người xưa rất am hiểu cuộc sống của mình.
4. Hương y
Không những trong phòng của nữ tử có nhiều loại hương, mà quần áo người xưa cũng sẽ rất thơm. “Hồng Lâu Mộng” miêu tả vẻ ảo diệu của tiên tử rằng: “Thính xạ lan chi phức úc, thính hoàn bội chi khanh thương”. Ý là ống tay áo tiên tử bồng bềnh, tản ra mùi thơm của xạ lan hương, tiên tử hoa sen váy áo phiêu động như thế, nghe được âm thanh ngọc bội va chạm nhau đinh đinh đong đong.
Vậy, quần áo cổ nhân sao lại có mùi hương như thế? Đầu tiên cổ nhân thường đeo túi thơm, thói quen mang túi thơm đã có trước thời Tần. Trong “Lễ ký” ghi chép, nữ tử thường sẽ dậy thật sớm, trước rửa mặt thật sạch, sửa sang quần áo tinh tươm, rồi mới buộc bên hông rất nhiều thứ mà ngày thường cần dùng, một loại trong đó chính là túi thơm, túi thơm sẽ giúp giữ người sạch sẽ thơm tho.
Về sau, trong xã hội thượng lưu thời Trung Quốc cổ đại, mọi người còn biết dùng hương để xông quần áo, chính là đem quần áo đặt trên lồng xông để khí thơm thông hết vào quần áo, mùi thơm trên quần áo sẽ giữ được rất lâu. Trong “Tương Dương ký” ghi lại câu chuyện kể rằng: Thời Hán có người tên Tuân Úc, mọi người gọi ông ta là Tuân Lệnh Quân. Người này rất thích đốt hương, trên quần áo luôn luôn có lưu mùi thơm. Lúc ông đến nhà người khác làm khách, thì nơi ông ngồi qua, ba ngày sau vẫn còn lưu lại mùi hương. Vì vậy lưu truyền câu nói rằng: “Tuân Lệnh Quân đến nhà, chỗ ngồi ba ngày lưu hương”, có thể thấy được đời sống người xưa rất lịch sự, tao nhã.
Hồi thứ 19 trong “Hồng Lâu Mộng” viết: Từ trong túi sen lấy ra hai miếng bánh nhỏ hương hoa mai, lại đem đốt bên lò sưởi, vẫn che kín nắp, đặt ở trong lòng Bảo Ngọc.
Bánh hương hoa mai là gì? Là bánh dùng để đốt có vẻ ngoài hình hoa mai, lúc đốt lên sẽ có mùi hoa mai thơm ngát. Sau khi đốt bánh hương hoa mai, tựa như một đóa hoa mai màu đỏ, nở rộ trong lư hương, lúc sáng lúc tối, nghe như còn có một mớ hoa mai mùi thơm ngát, từ đó chúng ta có thể nhìn thấy sự tao nhã trong đời sống người xưa.
5. Chữa bệnh
Trong lăng mộ Mã Vương Đôi thời Hán đào được rất nhiều văn vật, trong đó phát hiện có túi thơm, túi hoa thêu gối đầu và lư hương, bên trong đều chứa các loại thuốc có mùi thơm như bội lan, mao hương. Điều này cho thấy vào thời Hán hơn 2,000 năm trước, mọi người đã sử dụng phương pháp đốt hương như gối hương, lư hương để tiêu trừ ô uế, làm sạch không gian sống, phòng chống bệnh tật .v.v. Cho tới bây giờ, chúng ta còn thường dùng đến ngải cứu, chính là lợi dụng khí thơm từ việc đốt lá ngải cứu để khu trừ hàn khí trong cơ thể, giúp thân thể khỏe mạnh. Vào thế kỷ 14, khi bệnh dịch vá Cái chết đen hoành hành, người ta đem cánh hoa và thảo mộc rắc trên đường, khắp nơi ở công cộng đều có thể nhìn thấy treo túi hương và hoa cỏ có hương thơm. Người ta dùng những phẩm hương này để diệt virus, phòng ngừa muỗi phát sinh, ngăn chặn bệnh truyền nhiễm.
6. Trang sức làm đẹp
Cổ nhân thường dùng thực vật có hương thơm như cây lan, xương bồ để tắm rửa, không chỉ có thể giúp làn da trở nên nõn nà, mềm mịn, mà còn lưu lại hương thơm. Cổ nhân còn biết dùng một số thực vật có hương thơm như trầm hương, mật ong, xạ hương .v.v. để dưỡng da, giúp làn da trở nên trắng mịn, hồng hào. Cổ nhân còn dùng hà thủ ô, tạo giác .v.v. để gội đầu, loại này có thể giúp tóc trở nên đen nhánh, trơn bóng.
Trên đây là đời sống sử dụng hương thơm của người xưa, trong xã hội hiện đại ngày nay, chúng ta vẫn có thể tiếp tục kế thừa. Mặc dù chúng ta có rất ít thời gian để đốt hương tĩnh tọa, nhưng chúng ta vẫn có thể lựa chọn một chút thuốc xịt có mùi thơm dùng trong phòng hoặc trên quần áo, từ đó cải thiện tâm tình của mình. Khi căng thẳng, lo nghĩ nhiều, có thể thông qua một chút tinh dầu hoặc là nến thơm để cảm thụ mùi hương thực vật, giảm bớt lo âu, cải thiện trường năng lượng trên thân thể, giải tỏa và chữa lành cho tâm và thân.
Nhã Lan thực hiện
Lâm Phương Vũ biên tập
Toan Đinh biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ