Chưa hiểu ‘Sá và Tịch’ là chưa hiểu được trái tim của người Nhật Bản!
Nếu bạn chưa hiểu “Sá” và “Tịch” thì không thể nói rằng bạn đã biết về nét đẹp văn hóa của Nhật Bản. “Sá” và “Tịch” có thể nói là hai mặt của một chỉnh thể, truyền tải một loại tinh thần thẩm mỹ và cảnh giới tâm linh độc đáo của dân tộc Đại Hòa (dân tộc Yamato).
Trong văn hóa Nhật Bản, xu hướng thẩm mỹ từ xưa là tôn vinh sự tối giản, mộc mạc, điềm đạm và tĩnh lặng. Vào thời kỳ Trung cổ, những khái niệm thẩm mỹ như “Sá” (Wabi) và “Tịch” (Sabi) đã được ra đời. Những khái niệm mỹ học này không chỉ được tao nhân mặc khách vận dụng trong thi từ ca phú, mà còn đi sâu vào đời sống sinh hoạt thường ngày của dân chúng và lưu truyền cho đến ngày nay. Ngay cả hiện nay, khi chúng ta nhìn thấy một bộ đồ uống trà đơn giản và chất phác, trong một khu vườn hoặc ngôi đền bài trí đơn sơ yên tĩnh, nội tâm rất nhiều người sẽ đột nhiên dâng lên một loại cảm giác cổ xưa, an nhiên tự tại và tách biệt với thế tục. Loại trải nghiệm về thẩm mỹ này có lẽ liên quan đến tư tưởng truyền thống của Nhật Bản về “sá” và “tịch”, hoặc có thể nói chính là một loại phản ứng tự nhiên và có khúc xạ vậy.
“Sá” và “Tịch” trong mỹ học Nhật Bản
Các khái niệm và lý luận về mỹ học của Nhật Bản bắt nguồn từ văn hóa phương Tây, là một nhánh quan trọng của triết học. Đó là loại học vấn cảm tính, thường lấy việc khám phá bản chất và ý nghĩa của cái đẹp làm chủ. Trước thời cận đại, trong văn hóa phương Đông không đưa ra khái niệm rõ ràng về mỹ học như trong văn hóa phương Tây. Khi nền học thuật phương Tây truyền bá về phương Đông, nhà văn, học giả người Nhật Bản Mori Ōgai (1862-1922) đã phiên dịch mỹ học phương Tây là “thẩm mỹ học.” Còn những học giả theo tư tưởng Khai sáng ở Nhật Bản vào thời cận đại như Nishi Amane (1829-1897) và Nakae Chōmin (1847-1901) v.v. thì dịch nó là “thiện mỹ học,” “giai thú học.” Sau này gọi chung là “mỹ học,” cách gọi này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.
Mỹ học mà phương Đông nói đến thông thường là chỉ phạm trù triết học được khám phá trong định nghĩa và khuôn khổ của mỹ học phương Tây, không bao hàm nội dung văn hóa phương Đông. Tuy nhiên, từ xưa đến nay, trong tư tưởng văn hóa của Trung Hoa, Nhật Bản và các quốc gia phương Đông khác vốn đã tồn tại những nội dung có liên quan đến mỹ học, chỉ là chưa ‘khái niệm hóa’ và xem nó là một phạm trù độc lập mà thôi. Quả thực, do sự khác biệt giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây, nên ý nghĩa tự nhiên trong nội hàm và ngoại diên của mỹ học phản ánh trong văn hóa phương Đông cũng khác hẳn với mỹ học phương Tây.
Từ hiện tượng văn hóa truyền thống của Nhật Bản mà xét, Nhật Bản có tư tưởng mỹ học truyền thống đặc biệt, có thể gọi là mỹ học Nhật Bản, và giống như tư tưởng mỹ học truyền thống Trung Hoa, nó cũng ẩn tàng trong chỉnh thể văn hóa rộng lớn. Vậy thì, mỹ học truyền thống Nhật Bản biểu hiện bằng phương thức nào, và đặc điểm của nó là gì? Bài viết này sẽ thông qua “Sá” (Wabi) và “Tịch” (Sabi) để xem xét cẩn thận hình thức và hiện thực của mỹ học Nhật Bản, từ đó có được cái nhìn tổng thể về toàn bộ bức tranh.
Quả thật, tư tưởng thẩm mỹ truyền thống như “sá” và “tịch” là những biểu hiện tiêu biểu của tư tưởng mỹ học Nhật Bản, phản ánh đầy đủ và chuẩn xác những đặc điểm của văn hóa Nhật Bản và dân tộc Yamato. Hơn nữa, phương Tây thông thường xem mỹ học là triết học, còn mỹ học Nhật Bản không chỉ dừng lại ở tư duy hình thức phản ánh trên bề mặt tượng tầng, mà còn gắn bó mật thiết với cuộc sống hàng ngày, trở thành một bộ phận không thể tách rời.
“Sá” (侘, wabi) có nghĩa là từ sự thô tháo, nghèo khó và thiếu thốn mà đạt được sự phong phú về tinh thần. “Tịch” (寂, sabi) là chỉ trong sự nhàn đàm, tịch liêu mà tự nhiên cảm ngộ được vẻ đẹp vừa thâm thúy vừa toàn vẹn. Ý nghĩa của hai chữ Hán này vừa có chỗ trùng, vừa có chỗ khác với nghĩa gốc của Hán tự Trung văn. Trên thực tế, mượn hai chữ Hán này để biểu đạt văn hóa và tư tưởng của dân tộc Yamato, triển hiện ý cảnh độc đáo của mỹ học Nhật Bản.
Khi nói về mỹ học Nhật Bản, thông thường sẽ không tách rời “sá” và “tịch” mà sẽ xem chúng là một chỉnh thể để thảo luận, nghiên cứu. Do đó nói một cách tổng quát, “sá” và “tịch” chính là: Con người thường từ trong sự thô tháo, bần khổ, thiếu thốn hoặc trong nhàn đàm, tịch liêu, mà tìm kiếm, cảm thụ cảm xúc thực tế thăng hoa về tâm linh và tìm kiếm cảm ngộ về cái đẹp. Bởi vậy, người Nhật thường xem cảm nhận về sự vô thường của nhân thế, sự ngang trái của cuộc đời là một vẻ đẹp. Đó không phải là sự buông xuôi trong tuyệt vọng, mà là một loại giá trị lý niệm, một sự lĩnh ngộ về nhân sinh, một triết học xử thế, tương tự như ngộ Đạo.
Trong tập thơ cổ xưa nhất của Nhật Bản “Vạn diệp tập” (năm 783) cũng có những ghi chép liên quan đến “sá” (wabi), nhưng phần lớn là dùng để mô tả những cảm xúc cô đơn trong tình yêu. Từ góc độ văn hiến, lần đầu tiên nó được đề xuất và sử dụng như một khái niệm mỹ học trong cuốn sách về trà “Nanpōroku”, ấn hành vào thời Edo (không rõ tác giả, nhưng nó được cho là do trà Thánh, Sen no Rikyū viết).
Là một từ đơn trong ngôn ngữ, “sá” vốn biểu thị trạng thái khó chịu, nhàm chán của thân và tâm, nhưng vào thời Trung cổ, từ vựng này đã thay đổi và phát triển thành một ý thức thẩm mỹ mới mẻ: từ trong sự khó chịu, thiếu thốn mà tìm kiếm vẻ đẹp.
Nhận thức thẩm mỹ này lại kết hợp với Thiền học, khiến tầm ảnh hưởng của nó dần dần mở rộng. Sau thời Muromachi, tư tưởng truy cầu bản chất sự vật trong Thiền học trở nên phổ biến trong giới võ sĩ, văn nhân. Về mặt văn hóa cũng có ảnh hưởng rất lớn, chẳng hạn như việc sử dụng cát và đá thể hiện cảnh non nước khô cằn với đỉnh núi, dòng nước trong đình viện v.v.
Vào cuối thời Muromachi, trà đạo và thơ haiku (một trong những hình thức thơ ca văn học Nhật Bản, có đặc điểm u mặc và hài hước) cũng dẫn nhập ý thức thẩm mỹ này và phổ biến rộng rãi, thúc đẩy sự phổ cập của nó. Trà đạo, thơ haiku v.v. đều coi sự trong sáng và tĩnh lặng được tìm thấy trong sự mộc mạc và giản dị là vẻ đẹp. Đến thời Edo, nhà thơ Matsuo Bashō đã đưa nó lên một tầm cao mới. Về sau, nhận thức thẩm mỹ này dần dần lan rộng từ tầng lớp thượng lưu như quý tộc, văn nhân, võ sĩ cho đến tầng lớp bình dân.
Một thoáng vẻ đẹp của trà đạo “Wabi”
Vào thời Muromachi (1336~1573), tầng lớp quý tộc và võ sĩ có trào lưu sưu tập và thưởng thức những dụng cụ uống trà sang trọng của Trung Quốc. Giữa thời kỳ Muromachi trở về sau, tăng nhân Murata Jukō (1422-1502), người sáng lập ra “Trà Wabi” cùng những người khác đã bắt đầu sử dụng những bộ dụng cụ uống trà đơn giản, khiến người ta có thể cảm thụ sự tĩnh lặng, thuần chân, từ đó tạo ra một phong cách trà lễ hoàn toàn mới. Ngài Murata Jukō cho biết trong những bài văn chương của mình rằng: So với trăng tròn sáng trong, trăng khuyết lúc ẩn lúc hiện trong mây càng là vẻ đẹp cảm động lòng người. Điều mà ông muốn truyền đạt là: đem niềm yêu thích cái đẹp của sự không đầy đủ vào trà đạo, để những người thưởng thức trà đạo có thể ngộ đến cảnh giới mỹ diệu của trà “Wabi”.
Phú thương kiêm trà đạo gia Takeno Jōō (1502-1555), đã tiến một bước sâu hơn trong tư tưởng trà đạo của Murata Jukō, ông là người mà bậc thầy trà đạo Sen no Rikyū (1522-1591) sau này đã bái làm thầy và tu tập trà đạo. Trong trà đạo, Sen no Rikyū theo đuổi sự giao tiếp nội tâm giữa người với người, đồng thời tạo ra nhiều dụng cụ uống trà theo quan niệm thẩm mỹ của riêng mình. Mỗi bộ đều thể hiện sự độc đáo chưa từng có và đạt thành công lớn trong việc thể hiện vẻ đẹp của “Wabi”.
Đến thời Edo, vẻ đẹp của “Wabi” được xác định là nền tảng của thẩm mỹ trà đạo, đồng thời yêu cầu tích cực thực hành. Ý nghĩa và nội dung của nó đều có những quy định liên quan. Hình thức “trà Wabi” chính là xuất hiện ở thời Edo và bắt nguồn từ trường phái của Sen no Rikyū.
Matsuo Bashō (1644-1694), người được mệnh danh là thi Thánh của thơ haiku Nhật Bản, thường ca ngợi vẻ đẹp của “sá” (wabi) trong các tác phẩm của mình. Ví như, bài thơ nổi tiếng “Tĩnh tịch cổ trì đường, thanh oa khiêu thủy thanh” (Ao vuông xưa tĩnh tịch, nghe tiếng ếch khua nước), chính là một ví dụ điển hình. Vào thời điểm đó, thơ haiku theo đuổi sự sang trọng và tươi đẹp của ngôn từ ý cảnh. Bài thơ haiku này của Bashō đã cô đọng vẻ đẹp của “Wabi”, mang lại sự tác động và khai sáng lớn cho giới nhà thơ haiku thời đó một cách tự nhiên. Cứ như vậy, “Wabi” trở thành hiện thân của cảnh giới thẩm mỹ của tác giả. Bashō và những người khác cũng tích cực thực hành nó, đồng thời ủng hộ mạnh mẽ và đem tư tưởng thẩm mỹ của họ phổ biến ra bên ngoài.
Vào đầu thời kỳ Edo, Kobori Enshū (1579-1647), một võ tướng và là một người nổi tiếng về trà đạo, đã theo học Sen no Rikyū và Furuta Oribe, cũng trải qua sự thay đổi lớn từ triều đại Toyotomi đến triều đại Tokugawa. Sau khi sàng lọc nhiều trường phái khác nhau, ông đã đưa ra kiểu trà đạo kết hợp với văn hóa Vương triều, đưa ra khái niệm mỹ học trà đạo mới mẻ: “vẻ đẹp của tịch (sabi).” Đặc điểm của nó là: trong sự sang trọng ẩn chứa vẻ đẹp của sự tĩnh lặng. Điểm khác biệt so với các trường phái khác là, trà lễ tuy chứa đựng phong vị cổ xưa, nhưng vẫn giữ được một chút tươi đẹp và hoa lệ. Trong cuộc đời của mình, chỉ riêng ở Enshū, ông đã tổ chức hơn 400 tiệc trà, mời người thuộc nhiều tầng lớp xã hội tham gia, từ đại danh (chỉ võ sĩ có nhiều lãnh địa rộng lớn), quan chức cho đến dân đinh, v.v. thảy hơn 2,000 người.
“Sá”, “Tịch” và Thiền học
“Sá” và “Tịch” ban đầu là những khái niệm khác nhau. Việc đề xuất cũng như giới thiệu và phổ biến hai khái niệm này với tư cách là các khái niệm mỹ học của Nhật Bản, xét cho cùng là do chịu ảnh hưởng của Thiền học. Vì vậy, “sá” và “tịch” trong tư tưởng mỹ học Nhật Bản mang đậm màu sắc Thiền học, đồng thời được coi là những yếu tố cần thiết để đạt được “ngộ”.
Để tiện cho việc lý giải nội hàm mỹ học của “sá” và “tịch”, người ta đã đặt cho nó bảy tiêu chí. Một là không cân xứng, tức là tính không đối xứng, tính không quy tắc và tính không hoàn chỉnh. Hai là giản dị chất phác. Ba là xa xưa, tức là bề ngoài xa xưa nhưng bên trong ngoan cường. Bốn là tự nhiên, tức là coi trọng nguyên lý tự nhiên và tôn vinh sự thuần chân không tà mị. Năm là u huyền, nghĩa là huyền ảo mà sâu sắc tinh tế. Sáu là thoát tục, nghĩa là loại bỏ tất cả chấp trước, đạt đến vô vi. Bảy là tĩnh tịch, để cho thể xác và tinh thần có thể tiếp thụ tất cả sự vật, cần thiết cả trong và ngoài đều yên tĩnh.
“Sá” ban đầu có nghĩa là nghèo khó và lỗi thời. Thân trong nghèo khó nhưng dửng dưng trước giàu sang, quyền thế và danh lợi, ẩn chứa giá trị quý giá vượt thời đại, vượt thế tục. Đây có lẽ chính là ý nghĩa mỹ học của “Sá”.
Tuy nhiên, từ xưa Thiền học đã bị xem là đi đến chỗ cực đoan, mà việc đặt ra tiêu chuẩn về cái đẹp như trên cũng chỉ là vấn đề về quan điểm, bị cho là thiên lệch. Thực chất nó là một biểu hiện tự nhiên của Thiền học trong thời kỳ mạt Pháp. Nhưng mà, những quan niệm thẩm mỹ này đối với mỹ học Nhật Bản lại có ảnh hưởng rất sâu sắc và kéo dài cho đến ngày nay.
“Sá và Tịch” vượt qua đại dương
Là một khái niệm độc đáo của mỹ học Nhật Bản, “Sá và Tịch” sớm rời khỏi Nhật Bản và bước ra thế giới. Hoa ngữ phần lớn dựa vào ý nghĩa gốc hoặc phiên dịch gần nghĩa của Hán tự, còn tiếng Anh thì dịch là “Wabi-Sabi”. Hầu hết những người phương Tây có sự tu dưỡng nhất định đối với văn hóa Nhật Bản đều biết từ này. Tất nhiên, những người nước ngoài đến du lịch Nhật Bản cũng thường đề cập hoặc được nghe hai từ “Wabi-Sabi” đại diện cho quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản.
Nhà tư tưởng Nhật Bản Okakura Kakuzō (1863-1913) trong tác phẩm “The Book of Tea” (茶の本, ấn hành năm 1906) đã giới thiệu mối quan hệ giữa trà đạo Nhật Bản với Thiền học, Đạo giáo, Hoa đạo v.v., diễn giải một cách toàn diện tư tưởng mỹ học phương Đông “Wabi-Sabi” này. Vai trò của ông trong việc thúc đẩy quá trình hội nhập của văn hóa “Wabi-Sabi” vào thế giới là rất lớn.
Học giả Suzuki Daisetsu Teitarō (1870-1966) sau khi tu Thiền đã đến Hoa Kỳ và viết hơn 20 cuốn sách về Thiền học bằng Anh ngữ, khiến ông trở thành một học giả Phật giáo nổi tiếng thế giới. Trong các bài viết và bài giảng tại Đại học Harvard và Đại học Princeton, ông thường đề cập đến Thiền học và mỹ học Nhật Bản, giúp Âu Châu và Hoa Kỳ hiểu biết thấu đáo và sâu sắc hơn về “Wabi-Sabi.”
Ngoài ra, thông qua sự giới thiệu của những người ngoại quốc như nghệ nhân gốm người Anh Bernard Howell Leach (1887~1979), nhà văn người Mỹ Leonard Koren (1948~) v.v., “Wabi-Sabi” cũng dần dần được quốc tế hóa.