Vì sao chúng ta bảo vệ, gìn giữ chữ chính thể
Chữ Hán trong văn hóa Trung Quốc là thần truyền cấp cho con người, chữ Hán ban đầu do Thương Hiệt tạo chữ, thời cận đại ở Trung Quốc đại lục chữ Hán bị đơn giản hóa, sau khi đơn giản hóa, mọi người không thể dễ dàng đọc hiểu sách cổ, chúng ta trước tiên từ một chuyện cười mà nói, Trung Quốc có bài thơ nổi tiếng, kể lại câu chuyện phát sinh trong tết nguyên tiêu:
“Khứ niên nguyên nguyệt thời, hoa thị đăng như trú, nguyệt thượng liễu tiêu đầu, nhân ước hoàng hôn hậu, kim niên nguyên nguyệt thời, nguyệt dữ đăng y cựu, bất kiến khứ niên nhân, đột thấp xuân sam tụ”.
Nghĩa là: Vào tháng giêng năm ngoái, đèn hoa sáng tựa ngày, trăng treo đầu ngọn liễu, người hẹn sau hoàng hôn, đến tháng giêng năm nay, nguyệt cùng đèn như cũ, không gặp người năm ngoái, nước mắt ướt áo xuân. (Sinh tra tử, Nguyên tịch của Âu Dương Tu thời Tống).
Trong một tiết mục, người chủ trì nổi tiếng tên Đổng Khanh lòng đầy thâm tình thì thầm: “Khứ niên nguyên nguyệt thời, hoa thị đăng như thư” (Tháng giêng năm ngoái, chợ hoa đèn như sách), tiết mục vừa ra liền bị mọi người thảo luận sôi nổi: Chợ hoa đèn sáng như ban ngày, sao như sách được, bởi vì chính thể hai chữ này gần giống nhau, người đọc chữ giản hóa lâu ngày thật sự không dễ dàng phân biệt.
Chuyện này mặc dù trôi qua rất nhiều năm, nhưng vẫn bị mọi người bàn tán, nói họ không hiểu chữ chính thể, sự truyền thừa văn hóa truyền thống thật sự là đáng lo, từ chuyện này mọi người cũng phát hiện: Mặc dù chữ chính thể được viết tương đối nhiều, nhưng nó vẫn là có quy luật, nếu như hiểu rõ quy luật trong đó, liền có thể hiểu rõ được: phía sau chữ Hán ẩn giấu nội hàm và trật tự.
Vậy, nó có trật tự và quy luật như thế nào? Trong văn hóa Trung Quốc đem cấu tạo và phương pháp sử dụng chữ Hán chia làm sáu loại, theo thứ tự là tượng hình, chỉ sự, hình thanh, hội ý, chuyển chú, giả tá, bốn loại trước chủ yếu là phương pháp cấu tạo chữ Hán, hai loại sau chỉ phương pháp sử dụng chữ Hán.
Loại thứ nhất tượng hình, chính là dựa theo hình dáng vật thể vẽ nên, ví như núi, mặt trời, mặt trăng.v.v. Loại thứ hai chỉ sự, dùng phù hiệu trừu tượng biểu thị ra quan niệm trừu tượng, động tác, danh xưng, .v.v. khiến người ta nhìn liền có thể hiểu rõ ý nghĩa. Giống nhất (một), nhị (hai), tam (ba), hung (hung dữ), đao (lưỡi dao). Như trong chữ “Mộc” vẽ thêm một nét phía trên biểu thị “Mạt” là ngọn cây; trong chữ “Mộc” vẽ thêm một nét phía dưới, biểu thị “Bản” là rễ cây.
Loại thứ ba hội ý, đem hai chữ hoặc hai chữ trở lên độc lập với nhau hợp thành một chữ mới, biểu đạt một ý nghĩa mới. Như: chữ “Minh” là dùng “Khẩu” và “Minh” kết hợp tạo thành, hình tượng chỉ tiếng chim kêu. Lại như chữ “Tửu”, lấy dụng cụ chưng cất rượu “Dậu” và bộ “Thủy” hợp lại biểu đạt chữ Tửu.
Loại thứ tư hình thanh, chữ hình thanh thông thường do hai bộ phận tổ hợp tạo thành: hình và thanh, “Hình” biểu thị ý nghĩa chữ hoặc phân biệt thuộc loại gì; “Thanh” biểu thị âm đọc của chữ, như các chữ có quan hệ đến cây cối đều lấy hình “Mộc”, tăng thêm các loại âm đọc khác nhau liền thành mai, phong, tài, dữu, thê .v.v.
Trong Thuyết văn giải tự, chữ Hán thuộc bộ “Thị” rất nhiều, cơ hồ đều là phương pháp và hình thức câu thông giữa người và thần minh, như thần, lễ, cầu, đảo, chúc.v.v., trong cùng một bộ thủ ở bên cạnh, mọi người biết những chữ này đều có liên hệ với nhau.
Hai loại còn lại liên quan đến phương pháp sử dụng văn tự, một loại là chuyển chú, một loại là giả tá. Chuyển chú là kiểu chữ chưa thống nhất trước đó, dùng ý nghĩa tương đồng mà hình thể không giống nhau để giải thích lẫn nhau, câu thông lẫn nhau. Như: “Dậu” và “Tửu” , “Bắc” và “Bội”, “Khảo” và “Lão” thuộc loại chuyển chú.
Giả tá là mượn dùng một chữ đã có để diễn tả cùng âm nhưng khác biệt ý nghĩa. Như “Lai” vốn có nghĩa là “Mạch”, sau mượn để biểu thị “Lai” (Đến) trong “Lai khứ” (Đến đi), lại như giả mượn “Ô” (Đen) trong “Ô nhã” (Quạ đen) để biểu thị “Ô” trong “Ô hô” (Hỡi ôi) .v.v.
Cho nên, sáu phương thức dùng chữ: Tượng hình, chỉ sự, hình thanh, hội ý, chuyển chú, giả tá, trong Thuyết văn giải tự của Hứa Thận nhà Đông Hán có ghi chép kỹ càng, chúng được gọi là lục thư. Mà từ lục thư này sớm nhất trong Chu lễ – Quan có nói đến: “Bảo vệ người trông nom bách tính, can ngăn vua làm điều xấu, lấy đạo dưỡng nuôi con dân, chính là dạy lục nghệ: một là ngũ lễ; hai là lục nhạc; ba là ngũ xạ; bốn là ngũ ngự; năm là lục thư; sáu là cửu số.”
Nguyên bản chữ Hán có phương pháp cấu tạo trọn vẹn của nó, nhưng sau năm 1956 tại Trung Quốc, nơi phát xuất nguồn gốc chữ Hán, chính quyền Trung Cộng đã đem nó giản hóa đi, những thể chữ đơn giản hóa này không chỉ cho người ở đại lục dùng, mà còn mở rộng đến Hồng Kông, đài truyền hình Hồng Kông từng bị yêu cầu dùng chữ giản thể chạy chữ trên màn hình, gặp phải sự phản kháng của người dân, một số người dân Hồng Kông gọi những chữ giản hóa này là “tàn thể chữ”, cũng chính là chữ tàn khuyết không đầy đủ, nó không chỉ không có bất kỳ ý nghĩa gì, còn bẻ cong nguyên nghĩa chữ Hán. Ví như người học văn tự thường tuyên truyền mấy chữ này: yêu – yêu không có trái tim, thân – thân mà không gặp, sản – sản không sinh, xưởng – xưởng trống trơn, nhi – nhi không đầu, đạo – đạo không có đường, hương – thôn làng không có trai tráng, môn – mở đóng không có cửa .v.v.
Cũng có rất nhiều nhà trí thức hô hào muốn khôi phục văn hóa truyền thống Trung Quốc, khôi phục chữ chính thể, Hồng Kông có nhà thư pháp nổi tiếng Hoa Qua, rất nhiều phim có tên tuổi đều mời ông viết chữ, ví dụ Diệp Vấn tiền truyện, Thiếu Lâm tự, Thiến nữ u hồn .v.v, ông cả đời viết thư pháp, ông nói chữ bút lông nhất định phải dùng chữ chính thể để viết, đến lúc chữ Hán giản hóa, ông nói nếu một ngày chỉ có thể viết chữ giản hóa, tôi sẽ không viết nữa, từ đó cũng có thể nhìn ra ông đối với chữ Hán truyền thống lập trường rất vững vàng.
Còn có nhà văn hóa học Quý Tiện Lâm, từng nhắc đi nhắc lại rằng người trẻ tuổi nhất định phải đọc hiểu chữ chính thể. Nhà văn hóa học Nam Hoài Cẩn cũng cho rằng, văn hóa Trung Hoa mấy ngàn năm đều là dùng chữ chính thể, nhưng chữ Hán sau khi đơn giản không biết chữ chính thể, không thể hiểu rõ và truyền thừa tốt văn hóa Trung Hoa.
Nhà kinh kịch trứ danh, nhà biểu diễn nghệ thuật Mai Bảo Cửu vào năm 2009 từng trong hội nghị hiệp thương chính trị toàn quốc đề nghị khôi phục chữ chính thể, nói văn hóa truyền thống Trung Quốc không thể bỏ đi như vậy, năm 2016 ông lại lần nữa đề xướng, hô hào thanh thiếu niên luyện chữ bút lông, học chữ chính thể.
Ủy viên hội nghị hiệp thương chính trị toàn quốc Phan Khánh Lâm từng du học ở Nhật Bản vào năm 1985, về sau làm việc tại Nhật Bản vài chục năm. Năm 2009 giữa hai kỳ họp ông đã đưa ra, đề nghị cả nước dùng thời gian 10 năm, phân từng nhóm hủy bỏ chữ Hán giản thể, khôi phục sử dụng chữ chính thể. Năm 2014, đại biểu nhân dân toàn quốc Ngô Sĩ Dân đề nghị, hô hào quốc gia chấp nhận “Khôi phục chữ chính thể, truyền thừa văn hóa truyền thống”.
Năm 2015, đạo diễn đại lục Phùng Tiểu Cương trong hai hội nghị đề nghị, hô hào đồng thuận dần dần khôi phục bộ phận chữ chính thể có ý nghĩa bao hàm khía cạnh văn hóa, đừng để chữ Hán thất truyền. Cũng có rất nhiều người dân hô hào khôi phục văn hóa truyền thống Trung Quốc, khôi phục chữ chính thể Trung Quốc.
Do Nhã Lan thực hiện
Toan Đinh biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ
Xem thêm: