Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của pháo
Pháo trúc (bộc trúc), dân gian còn gọi là “bộc trượng”, “hoa tiên” hoặc “hưởng tiên”. Vào mỗi đêm giao thừa, nhà nhà cùng ra khỏi nhà để đốt pháo. Tiếng pháo nổ trên mọi cung đường ngõ hẻm và những gương mặt tươi cười của mọi người làm cho không khí ngày tết càng thêm náo nhiệt.
Mọi người thích đốt một quả pháo trước bữa tối đêm giao thừa, thường gọi là “bế môn pháo trượng” [1], đến giờ tý, mọi người dùng tiếng nổ mãnh liệt của pháo để xua đuổi yêu ma quỷ quái để nghênh đón năm mới. Đến mùng một tết, khi mở cửa nhà thì đốt thêm một quả pháo, gọi là “khai môn pháo trượng” [2], ba quả thì gọi là “liên trung tam nguyên” [3], bốn quả gọi là “phúc, lộc, thọ, hỷ” [4], sáu quả là “lộc lộc đại thuận” [5], đốt một chuỗi trăm quả thì gọi là “bách tử bộc” [6], để xác pháo phủ đầy cửa nhà thì được gọi là “mãn địa kim tiền” [7].
Tại Trung Quốc, pháo trúc có lịch sử hơn 2000 năm. Vào thời cổ đại, pháo là thứ dùng để xua đuổi ma quỷ, bằng cách đốt pháo thì có thể khu trừ quỷ quái.
Theo truyền thuyết Trung Quốc, vào thời cổ đại có một loại quái thú gọi là “niên”, có một chiếc sừng dài và nhọn trên đầu, hung mãnh dị thường. “Niên” ở dưới đáy biển suốt cả năm, nhưng mỗi khi đến giao thừa liền mò lên bờ ăn thịt súc vật và con người, vì vậy mỗi khi đến giao thừa, già trẻ ở các thôn làng dìu dắt nhau vào trong núi sâu để tránh bị “niên” làm hại.
Vào đêm giao thừa một năm nọ, lúc mọi người đang bận rộn khăn gói để trốn vào núi sâu thì xuất hiện một ông lão tóc bạc trắng đến từ phía đông làng. Ông nói với một bà lão trong làng rằng muốn ở lại nhà bà một đêm, và nói rằng sẽ đuổi được “niên” đi, mọi người đều không tin. Bà lão khuyên ông tốt hơn hết là nên tránh lên núi, nhưng ông một mực muốn ở lại, mọi người thấy khuyên bảo không xong liền nhao nhao kéo nhau đi tránh.
Khi “niên” chuẩn bị vào làng tàn phá như mọi năm thì đột nhiên có tiếng pháo nổ, “niên” sợ run hết mình mẩy, cũng không dám tới gần nữa. Căn nguyên là do “niên” sợ nhất là màu đỏ, ánh lửa và tiếng nổ. Lúc này cửa lớn mở toang, chỉ thấy từ trong nội viện có một ông lão mặc áo bào màu đỏ cười lớn bước ra, “niên” thất kinh, lật đật tháo chạy.
Hôm sau, khi mọi người từ trong núi trở về làng, phát hiện trong làng bình yên vô sự, lúc đó mới chợt hiểu ra, nguyên ông lão tóc trắng chính là Thần Tiên đến giúp dân làng xua đuổi “niên”, đồng thời mọi người cũng phát hiện ba pháp bảo mà ông lão đã dùng để đuổi “niên”, một trong số đó chính là việc đốt pháo trúc. Kể từ đó hàng năm vào thời điểm này, nhà nhà đèn đuốc sáng trưng, “thủ canh đãi tuế” [8] và đốt pháo trúc. Phong tục này ngày càng lan rộng và đã trở thành truyền thống long trọng nhất của dịp Tết Nguyên Đán, và việc đốt pháo cũng đã trở thành tập tục trọng yếu của ngày tết này.
Các ghi chép lịch sử cũng ghi lại một câu chuyện tương tự, Đông Phương Sóc thời Tây Hán trong “Thần dị kinh” nói trong một núi sâu phía tây, có một loại quỷ tên là “sơn tiêu”. Nó có thể làm người ta phát sốt, mắc bệnh sốt rét của quỷ, đuổi nó đi thì mọi người mới được cát lợi bình an. Nghe nói rằng sơn tiêu sợ lửa và sợ tiếng nổ, vì vậy mọi người nghĩ ra biện pháp đối phó đó là bỏ ống trúc vào đống lửa để đốt đến khi lóng trúc nứt ra và phát ra tiếng nổ làm cho sơn tiêu sợ hãi. Có thể nói đây là vết tích sớm nhất của phương pháp chế tạo pháo trúc.
Vào thời Lục quốc, người ta thường đốt pháo vào dịp Tết Nguyên Đán, và nó đã trở thành một tập tục. Tôn Lẫm thời nhà Lương (Nam Tống) trong cuốn “Kinh sở tuế thời ký nói: “chính nguyệt nhất nhật (ngày đầu của tháng giêng), thị tam nguyên chi nhật dã (là ngày tam nguyên, tức đầu ngày, đầu tháng, đầu năm). “Sử ký” vị chi đoan nguyệt (gọi là tháng giêng). Vào lúc gà gáy sáng, Trước tiên là pháo trúc trước sân, đốt cỏ, có thể đuổi được quỷ sơn tiêu.” Cái gọi là “khai môn pháo trượng” là từ đây mà ra.
Những năm đầu thời nhà Đường từng bộc phát ôn dịch, có một người tên là Lý Điền, đã bỏ tiêu thạch [9] vào trong ống trúc, sau khi bị đốt cháy thì nó phát ra tiếng nổ lớn kèm theo khói tỏa mịt mùng, kết quả đã xua đám chướng khí của vùng núi tản đi, ngăn chặn dịch bệnh lan rộng, đây là loại pháo có nhồi tiêu thạch đầu tiên, sau này gọi là “bộc can” [10]. Sau khi thuốc súng được phát minh và sử dụng rộng rãi, vào thời nhà Tống, pháo chuyển sang dùng giấy, bọc thuốc súng và dây gai thành dạng ống sau đó tết thành một chuỗi, thời đó gọi là “biên pháo”. Về sự phát triển của pháo, trong cuốn “Thông tục biên bài ưu” có viết: cổ thì bộc trúc, giai dĩ chân trúc trứ hỏa bộc chi, cổ đường nhân thi diệc xưng bộc can (bộc trúc thời cổ, đều dùng trúc đốt cho nổ, người xưa thời Đường thì gọi pháo là bộc can). Người đời sau lấy giấy cuộn lại, gọi là bộc trúc.
Từ thời nhà Đường, Tống, việc đốt pháo đã bắt đầu trở thành tập tục ở các nơi. Sau này, việc đốt pháo không còn chỉ dành riêng cho lễ tết hoặc trừ tà, mà cả những nơi có không khí vui mừng cũng có thể đốt pháo.
Chú thích:
- [1] “bế môn pháo trượng”: đóng cửa đốt pháo
- [2] “khai môn pháo trượng”: mở cửa đốt pháo
- [3] “liên trung tam nguyên”: ý muốn cầu chúc trong nhà có người đạt được tam nguyên (đỗ đầu cả ba kỳ thi hương, thi hội, thi đình)
- [4] “phúc, lộc, thọ, hỷ”: những điều lành (Phúc), sự thịnh vượng (Lộc), và tuổi thọ (Thọ), những chuyện vui (Hỷ)
- [5] “lộc lộc đại thuận”: chỉ ngày 6 tháng 6 âm lịch, chủ yếu chúc phúc cho người trung niên có một gia đình hạnh phúc, công việc thuận lợi, sự nghiệp thành công và sức khỏe tốt, mọi người hòa thuận.
- [6] “bách tử bộc”: chuỗi một trăm quả pháo
- [7] “mãn địa kim tiền”: tiền phủ đầy sân
- [8] “thủ canh đãi tuế”: cầm canh đợi tuổi, hay chong đèn chực tuổi 終畑直嵗, mọi người thức khuya đốt pháo khua chiêng đuổi niên thú, như thế thì gọi là “thủ tuế”.
- [9] tiêu thạch: đá tiêu hay tiêu thạch, hỏa tiêu, nha tiêu, tiêu toan giáp, diễm tiêu, mang tiêu, là dạng khoáng vật của kali nitrat (KNO3), còn được gọi là diêm tiêu (nghĩa là muối của đá tiêu).
- [10] “bộc can”: một tên gọi khác của bộc trúc tức pháo trúc.
Xem thêm:
Như Chi biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ chanhkien.org