Tam Tự Kinh – Đọc sách luận bút (P.16): Câu chuyện ‘Đức hiếu cảm hóa lòng người’
“Tam Tự Kinh” là một tác phẩm kinh điển nổi tiếng đã được dùng làm sách giáo khoa trong trường tư thục từ thời nhà Tống, tương đương với sách giáo khoa tiểu học ngày nay, do đại Nho gia Tống triều Vương Ứng Lân tiên sinh soạn.
Xem lại P1, P2, P3, P4, P5, P6, P7, P8, P9, P10
Nguyên văn
孝經通,四書熟,
如六經,始可讀。
詩書易,禮春秋,
號六經,當講求。
Âm Hán Việt
Hiếu kinh thông, Tứ thư thục,
Như Lục Kinh, Thủy khả độc.
Thi Thư Dịch, Lễ Xuân Thu,
Hiệu Lục kinh, Đương giảng cầu.
Tạm dịch:
Thông Hiếu kinh, thuộc Tứ thư,
Đến Lục kinh, bắt đầu đọc.
Thi Thư Dịch, Lễ Xuân Thu,
Xưng Lục kinh, nên chú trọng.
Từ vựng
(1) Hiếu Kinh (孝經): tên sách, là cuốn sách ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và Tăng Tử về đạo hiếu, đồng thời nói rõ bậc Thánh Vương lấy đạo hiếu để trị vì thiên hạ.
(2) Thông (通): thông hiểu minh bạch, hiểu rõ.
(3) Thục (熟): quen, thuộc, hiểu rõ.
(4) Như (如): giống như, đến, tới.
(5) Lục kinh (六經): sáu cuốn kinh thư, kinh điển của Nho gia, gồm có “Thi Kinh”, “Thư Kinh” (Thượng Thư), “Dịch Kinh” (Chu Dịch), “Lễ Ký”, Nhạc Ký, và “Xuân Thu”.
(6) Thủy (始): mới, bắt đầu.
(7) Thi Thư Dịch (詩書易): chỉ ba cuốn “Thi Kinh”, “Thượng Thư”, “Dịch Kinh” (Chu Dịch).
(8) Lễ Xuân Thu (禮春秋): chỉ cuốn “Lễ Ký” và “Xuân Thu”.
(9) Hiệu (號): danh xưng, được xưng, được gọi.
(10) Giảng cầu (講求): coi trọng, chú trọng tìm tòi.
Dịch nghĩa tham khảo
Học thuộc bốn cuốn sách “Luận Ngữ”, “Mạnh Tử”, “Đại Học”, “Trung Dung” rồi đến đạo lý của “Hiếu Kinh” cũng đọc hiểu cho rõ ràng triệt để thì mới có thể bắt đầu đọc 6 cuốn: “Thi Kinh”, “Thư Kinh”, “Dịch Kinh”, “Lễ Ký”, “Xuân Thu”, “Nhạc Kinh”.
“Thi Kinh”, “Thư Kinh” (Thượng Thư), “Dịch Kinh”, “Lễ Ký”, “Xuân Thu”, và “Nhạc Kinh” gọi là Lục kinh. Đây là những kinh điển quan trọng của Nho gia cổ đại Trung Quốc, chúng ta nên nghiên cứu tìm hiểu, học tập tốt những đạo lý ở trong đó.
Đọc sách luận bút
Khổng Tử cho rằng, hiếu đạo là gốc của nhân nghĩa, cho nên sau khi học năm cuốn sách gồm Tứ Thư và Hiếu Kinh mới có thể học tập Lục kinh. Tại sao lại quy định như vậy?
Kỳ thực, Tứ thư là tôn chỉ cơ sở và điểm chính, nói chính xác hơn, là điểm cốt yếu để làm người, nhất là “Luận Ngữ” đứng đầu Tứ thư đã bao hàm ý nghĩa của ba cuốn kia, là cốt yếu trong cốt yếu. Mặt khác, ba cuốn còn lại đều có sức nặng riêng, như “Đại học” đặt nặng vào đức trị quốc, “Trung dung” là cách làm cân bằng, chính là giải quyết sự tình không sang cực đoan. Có cơ sở đạo đức nhân nghĩa và cách làm cân bằng này rồi, lại học tập các sách cổ điển khác, mới có thể hiểu được căn bản các loại hình thức ngành nghề và kỹ năng nghề nghiệp.
Nói một cách khác, Khổng Tử giáo dục học sinh, mục đích là đào tạo thành đấng quân tử, sau đó lấy đức hạnh của người quân tử để trị vì quốc gia, lấy đức để giáo hóa bách tính, tạo phúc cho xã hội. Vậy nên, Khổng Tử mới đem những cuốn sách và thư tịch cổ thời Tiền Tần, tức là có từ trước khi Khổng Tử ra đời để chỉnh lý soạn lại, hình thành Lục kinh.
Những kinh thư vốn đã tồn tại, không phải do Khổng Tử viết, mà là Khổng Tử chỉnh lý. Kỳ thực, gia tộc bên mẹ của Khổng Tử là nhà nho, là giáo quan [1] phụ trách tế lễ triều Chu và giáo dục con em nhà quý tộc. Sau khi Khổng Tử chỉnh lý văn thư thượng cổ, mới hình thành Nho gia. Cho nên trường phái Nho gia, kỳ thực chính là nhà giáo dục phụ trách truyền thừa học vấn làm người và trị quốc thời cổ đại. Vì vậy, không có gì lạ khi có những thứ của Đạo gia trong đó.
Như vậy thời đầu chỉnh lý những sách này để làm gì? Chính là để làm tài liệu giảng dạy, dạy bảo con em vương thất quý tộc. Thông qua giáo dục, hiểu được chế độ, lễ nghi, cách viết văn thư, ghi lại lịch sử, cách thức chế định quốc sách v.v. thì mới hiểu được cách cai quản đất nước. Những thứ này thực ra là tu dưỡng cơ bản và kiến thức trách nhiệm của người làm quan. Cho nên cũng gọi là Lục nghệ, chú trọng ghi chép lại hình thức và kỹ nghệ cụ thể, cũng có thể xem là kiến thức chuyên nghiệp ngày nay.
Theo lời của Khổng Tử thì con em quý tộc trước đây học tập Lục nghệ, nhưng không hoàn toàn chỉ có vậy. Khi đó, chiến tranh liên miên, quý tộc làm quan, ngoại trừ phải biết Lễ, Nhạc, còn phải biết bắn cung (Xạ), đánh xe ngựa (Ngự), cách viết chính lệnh văn thư thời cổ đại (Thư) và toán học (Số). Đây chính là sáu loại kỹ nghệ chuyên nghiệp Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số. Thông thường, bạn không biết cách viết chữ và văn thư thì không cách nào khởi thảo chiếu lệnh, xử lý chính sự, ghi chép lịch sử, ghi chép các hoạt động tế tự của quốc gia; bạn không biết Lễ nhạc, thì không biết lễ tiết tiếp đãi khách nước ngoài, lễ tiết của quân thần, tế tự và lễ nghi, chương nhạc (các bài nhạc) của các loại hoạt động, thì không cách nào xử lý các việc triều chính. Ngoài ra còn phải luyện võ, có thể nói là văn võ song toàn. Đến thời Khổng Tử, thì ngoại trừ hình thức bên ngoài, Khổng Tử càng thêm chú trọng vào nội hàm bên trong, cho nên có chỗ điều chỉnh và biến hóa.
Lý giải đơn giản, Tứ thư chính là đạo nhân nghĩa, Lục kinh là để giúp người ta nắm vững và vận dụng những thứ tương đương kỹ năng chuyên nghiệp mà người hiện đại ngày nay vẫn thường gọi, thuộc về phần tài năng. Sở dĩ ban đầu đọc Tứ thư và Hiếu Kinh, chính là muốn lấy đức chỉ huy tài năng. Hoàn thành lý tưởng của Khổng Tử lấy đạo của bậc quân tử để trị vì quốc gia.
Kỳ thực, “Kinh Thi” chính là tổng tập thi ca sớm nhất của Trung Quốc gồm 300 bài thơ, vốn là ca từ của những nhạc khúc khác nhau của các quốc gia triều Chu, chia làm ba phần Phong, Nhã, Tụng. Phong tức là những bài ca dao của từng vùng, Nhã, Tụng là các bài tế ca và tụng ca của vương thất.
Sách “Thượng Thư”, tức văn hiến thượng cổ (tài liệu lịch sử thời thượng cổ), là những tài liệu ngoại sử về triều chính của triều đình nhà Chu được lưu trữ lại. Xét trên nội dung của “Thượng Thư” có thể chia làm 2 loại: tế tự và chiến tranh. Xét trên hình thức thể văn cũng có thể chia thành hai loại lớn: tấu chương dâng lên và chiếu lệnh ban xuống.
Sách “Lễ”, còn gọi là “Chu Lễ”, là quy chế pháp luật cai quản của triều đình nhà Chu. Chu Công tại Lạc Ấp chế Lễ soạn Nhạc, đặt định cơ sở của Chu Lễ. Cái được gọi là Lễ, là những điều mà thiên tử, chư hầu, đại phu nhất định phải tuân theo, mỗi tầng lớp có chế độ riêng về lễ nghi. Nội dung chủ yếu của Lễ có phong chư hầu, định ngũ phục (năm loại trang phục), phong tước vị, quan chức và các lễ cát hung.
Sách “Dịch Kinh” giảng bói toán âm dương, có thể thông quy luật Thiên Địa Nhân, là trí tuệ lấy thiên đạo để trị quốc của người cai trị.
Sách “Xuân Thu” là quốc sử của nước Lỗ, thời Tiền Tần (giai đoạn lịch sử của Trung Quốc trước khi nhà Tần thống nhất) thì gọi sử sách là Xuân Thu.
Sách “Nhạc” thì đã thất truyền.
Câu chuyện: Đức hiếu cảm hóa lòng người
Đây là câu chuyện cảm động về lòng hiếu thảo, được liệt vào Nhị Thập Tứ Hiếu (24 câu chuyện về lòng hiếu thảo). Văn hóa truyền thống Trung Quốc giảng “Bách thiện hiếu vi tiên” (trăm điều thiện, hiếu đứng đầu), lòng hiếu thảo thành tâm thành ý của Vương Tường đã đem lại phúc phận sau này cho ông. Câu chuyện đã nói lên quan niệm truyền thống “Tích thiện chi nhân, tất hữu dư khánh” (làm người tích thiện, tất có thừa phúc), “Thiện hữu thiện báo” (làm việc tốt sẽ nhận được quả báo tốt).
Vương Tường là người Lâm Nghi (nay là huyện Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông), tự là Hưu Trưng, là hậu nhân của Gián nghị đại phu Vương Cát thời nhà Hán.
Bản tính Vương Tường thuần hiếu. Mẹ đẻ sớm qua đời khi ông còn nhỏ, người mẹ kế họ Chu mang tâm thiên vị, chán ghét căm hận Vương Tường nên thường mượn cớ nhỏ nhặt để đánh đập ông, lại thường xuyên đặt điều thị phi, vu cáo hãm hại Vương Tường trước mặt cha ông. Do đó mà cha ông dần dần cũng không ưa ông nữa, bắt ông hàng ngày phải dọn sạch chuồng bò, làm các việc nặng nhọc. Tuy nhiên Vương Tường không oán trách chút nào, lại càng thêm cẩn thận hiếu thuận.
Cha mẹ bị ốm, ông không dám lười nhác, khi sắc thuốc nhất định phải tự mình thử trước, cung kính hầu hạ cha mẹ. Một hôm, mẹ kế muốn ăn cá chép tươi, khi đó trời lạnh tuyết rơi, nước sông đều đã đóng băng. Vương Tường vì mẹ kế, không ngại trời lạnh, ông ra sông cởi quần áo nằm xuống băng với hy vọng làm tan băng để bắt cá. Trời xanh không phụ lòng người chịu khổ, sau đó lớp băng vỡ ra và hai con cá chép nhảy lên, Vương Tường bèn bắt cá mang về nhà. Người trong thôn biết chuyện đều kinh ngạc, cho rằng đó là do lòng hiếu thảo mà được. Từ đó về sau, câu chuyện về lòng hiếu thuận của Vương Tường được lưu truyền khắp nơi.
Những năm cuối thời Thục Hán, cha của Vương Tường qua đời. Gặp thời loạn lạc, Vương Tường bảo hộ mẹ kế và dìu dắt em nhỏ Vương Lãm chạy nạn trốn ở Lư Giang, ẩn cư 30 năm. Châu quận triệu ông làm quan, Vương Tường từ chối vì mẹ già em thơ. Đến khi mẹ kế qua đời, sau khi để tang mẹ xong, thứ sử Từ Châu là Lã Kiền ngưỡng mộ đức hiếu của ông, lần nữa triệu ông ra làm thứ sử tá lại (chức quan phụ tá cho thứ sử), ông vẫn một mực từ chối không nhận. Em trai Vương Lãm bèn khuyên ông, đồng thời chuẩn bị xe ngựa cho ông đi, Vương Tường mới chịu nhậm chức.
Khi ấy trộm cướp hoành hành, Vương Tường dẫn binh đi dẹp yên. Từ đó người dân Từ Châu có được cuộc sống an định, mọi người an cư lạc nghiệp. Khi đó mọi người khen ngợi rằng: “Hải nghi chi khang, thực lại Vương Tường. Bang quốc bất không, biệt giá chi công” (Vùng ven biển sung túc, thực nhờ Vương Tường. Đất nước được yên, là nhờ công của quan biệt giá).
Sau này Vương Tường làm đến chức Thái Bảo (một trong Tam công, ba chức quan cao cấp nhất trong triều đình gồm Thái Sư, Thái Phó và Thái Bảo), tước phong làm Huy Lăng Công, hưởng thọ 85 tuổi. Vương Tường sinh được 5 người con trai, họ đều là những người phú quý sống thọ, phúc lộc đầy nhà. Người thời đó đều cho rằng vì có đức hiếu nên mới được như vậy.
***
Văn hóa Trung Quốc vô cùng coi trọng hiếu đạo, cho nên có chuyện Nhị Thập Tứ Hiếu, dù là người không đọc sách cũng đều biết những câu chuyện này. Bởi vậy, trước thời Cách mạng Văn hóa, người Trung Quốc nho nhã lễ độ, con trẻ rất hiểu lễ nghi, đối đãi với người lớn, cha mẹ đều cung kính hiếu thuận, có phép tắc, biết cảm ân khiêm nhường, được khen là lễ nghi chi bang (nước có lễ nghi).
Trong phần mở đầu của cuốn “Luận Ngữ”, Hữu Tử, đệ tử của Khổng Tử, giảng rằng: “Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dữ!” (Quân tử cần phải chú ý cái gốc của việc làm người, cái gốc mà tốt thì nhân sinh quan đúng đắn. Hiếu đễ cũng vậy, đó là cái gốc rễ của nhân nghĩa!) Cho nên, Nho gia rất coi trọng đạo hiếu, cho rằng có thể hiếu kính cha mẹ ở nhà là tu dưỡng cơ bản để trở thành đấng quân tử, là căn bản của nhân đức. Làm được điều này, mới có thể trị vì quốc gia. Kỳ thực, đây vốn là truyền thống của dân tộc Trung Hoa do vua Thuấn thời thượng cổ lưu lại, được Nho gia kế thừa và phát triển.
Ghi chú: Bài viết này dựa trên tài liệu dạy “Tam Tự Kinh” đã qua chỉnh sửa của Chánh Kiến Net.
Quý vị tham khảo bản gốc từ chanhkien.org