PHÂN TÍCH: So sánh cuộc khủng hoảng ngân hàng ngày nay với cuộc khủng hoảng năm 2008
Các nhà phân tích cho biết việc so sánh sự sụp đổ của ngân hàng hiện tại với cuộc khủng hoảng thế chấp năm 2008 thường bỏ lỡ bức tranh lớn hơn
Khi cuộc khủng hoảng ngân hàng hiện tại lan rộng, với việc First Republic Bank trở thành ngân hàng lớn thứ ba của Hoa Kỳ phá sản vào năm 2023, nhiều người hiện đang nhìn thấy dư âm của cái được gọi là “Đại Khủng hoảng Tài chính” năm 2008–09.
Sự sụp đổ chậm chạp của First Republic và cuối cùng là vụ mua lại của JPMorgan Chase hôm 01/05 theo sau sự thất bại của các ngân hàng khu vực Silicon Valley Bank (SVB) và Signature Bank hồi đầu năm nay. Tổng tài sản của ba ngân hàng này đạt hơn 500 tỷ USD, vượt quá tổng tài sản của các ngân hàng phá sản năm 2008.
Một số nhà phân tích đã chỉ ra rằng, ngoại trừ Washington Mutual Bank, vốn có tài sản trị giá 432 tỷ USD ngay trước khi sụp đổ vào năm 2008, cả ba ngân hàng đổ vỡ năm nay đều lớn hơn bất kỳ ngân hàng nào phá sản năm 2008. First Republic Bank, SVB, và Signature Bank lần lượt là các ngân hàng lớn thứ 14, 16 và 29 của Mỹ tính theo tài sản.
Tuy nhiên, trong khi hàng loạt các vụ phá sản ngân hàng gần đây chắc chắn là một mối lo ngại, thì việc so sánh với cuộc khủng hoảng năm 2008 có thể gây hiểu lầm nếu chỉ nhìn vào các vụ phá sản ngân hàng. Nếu tính đến quy mô của cuộc khủng hoảng năm 2008, thì rõ ràng cuộc khủng hoảng hiện tại có rất ít điểm chung với cuộc khủng hoảng trước đó.
Nhìn nhận về cuộc khủng hoảng hiện tại
Năm 2008, một số ngân hàng lớn nhất của Mỹ, chẳng hạn như Tập đoàn Wachovia, ngân hàng lớn thứ tư của Mỹ vào thời điểm đó, thực chất là không “phá sản” mà là sáp nhập với các ngân hàng khác. Ngoài ra, nhiều ngân hàng đầu tư lớn nhất thế giới (Lehman Brothers, Bear Stearns, Merrill Lynch), công ty bảo hiểm (AIG) và quỹ phòng hộ hoặc sụp đổ, bị mua lại, hoặc được nhà nước bảo hộ.
Lehman Brothers, được phân loại là một nhà môi giới/đại lý hơn là ngân hàng, có tài sản khoảng 600 tỷ USD vào thời điểm sụp đổ. Wachovia có tài sản trị giá 670 tỷ USD và 27 triệu tài khoản của người gửi tiền khi được Wells Fargo mua lại. AIG có tài sản trị giá 1 ngàn tỷ USD.
Ngoài ra, danh sách các tổ chức tài chính lớn đã nhận được sự trợ giúp của chính phủ để tồn tại qua cuộc khủng hoảng năm 2008 bao gồm JPMorgan Chase, Citibank, Bank of America, Wells Fargo, Goldman Sachs và Morgan Stanley. Ngày nay, có vẻ như không có tổ chức nào trong số này đang gặp khủng hoảng.
Ông Chris Cole, phó chủ tịch điều hành và cố vấn pháp lý cao cấp của Ngân hàng Cộng đồng Độc lập Hoa Kỳ (ICBA), nói với The Epoch Times: “Cuộc khủng hoảng năm 2008 đã lan rộng hơn nhiều.”
Ông Cole nói, cuộc khủng hoảng năm 2008 “đã ảnh hưởng đến các ngân hàng, tổ chức phi ngân hàng, công ty thế chấp; nó ảnh hưởng đến ngành xây dựng; gần như tất cả các khoản vay thương mại đều bị ảnh hưởng. Và đó là lý do tại sao chúng ta kết thúc với gần 500 ngân hàng phá sản, và tại sao chúng ta gặp khủng hoảng giữa các ngân hàng lớn mà cuối cùng phải được cứu trợ.”
Ông nói: “Ở đây, chúng ta không thấy sự lan rộng đó đang diễn ra. Tôi nghĩ rằng sự lây lan này phần lớn đã được ngăn chặn.”
Các ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng được coi là “quá lớn để có thể sụp đổ,” ngày nay không chỉ được vốn hóa tốt hơn so với trước cuộc khủng hoảng năm 2008, mà còn phải tuân theo tỷ lệ thanh khoản nghiêm ngặt hơn, vốn đo lường khả năng thanh toán các nghĩa vụ như rút tiền gửi. Điều này đã cho phép các ngân hàng lớn vào cuộc và trợ giúp các ngân hàng khu vực đang gặp khó khăn hiện nay, thay vì họ tự mình yêu cầu sự trợ giúp từ chính phủ.
Ông Ed Yardeni, nhà kinh tế và chủ tịch của Yardeni Research, nói với The Epoch Times: “Các ngân hàng [lớn] đang ở trong tình trạng rất tốt. Như chúng ta vừa chứng kiến, ông Jamie Dimon đã kiếm được một món hời lớn khi mua lại những gì còn lại của First Republic.”
Ông nói vai trò của Giám đốc điều hành JPMorgan trong việc trợ giúp các ngân hàng đang gặp khó khăn ngày nay gợi nhớ đến nhà sáng lập ngân hàng, ông James Pierpont Morgan, người đã giúp giải cứu hệ thống ngân hàng trong “cơn hoảng loạn” ngân hàng năm 1907.
Các cuộc khủng hoảng khác nhau, nguyên nhân khác nhau
Ngoài ra, bản chất của cuộc khủng hoảng tài chính ngày nay về căn bản đã đổi khác.
Năm “2008 là một cuộc khủng hoảng về khả năng thanh toán,” Bộ trưởng Ngân khố Janet Yellen nói với Hiệp hội Ngân hàng Hoa Kỳ hôm 21/03. “Điều chúng ta đang chứng kiến hiện này là việc rút tiền ồ ạt mang tính lây lan.”
Bà Yellen nói: “Hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ vẫn ổn định.”
Mất khả năng thanh toán xảy ra khi tài sản của một ngân hàng, hoặc danh mục cho vay của ngân hàng, có giá trị thấp hơn các khoản nợ phải trả, bao gồm cả tiền gửi. Đó là một kịch bản khác với một cuộc khủng hoảng thanh khoản, trong đó ngân hàng có khả năng thanh toán nhưng không thể trả tiền cho người gửi tiền tại một thời điểm nhất định vì ngân hàng đã cho vay tiền trong thời hạn dài hơn.
Cuộc Đại khủng hoảng Tài chính cho thấy các tổ chức tài chính trên toàn bộ nền kinh tế chịu tổn thất to lớn trong danh mục cho vay của họ do vỡ nợ tín dụng, đầu tiên là danh mục cho vay thế chấp và các công cụ phái sinh được bảo đảm bằng thế chấp, sau đó là danh mục cho vay tiêu dùng và thương mại của họ khi tình trạng đổ vỡ tài chính lan rộng khắp nền kinh tế.
Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, một số ngân hàng đã phải đối mặt với các vấn đề về thị trường và thanh khoản, do Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất nhanh chóng, nguồn cung tiền bị thắt chặt và rút tiền gửi nhanh chóng — nhưng tình trạng vỡ nợ phổ biến vẫn chưa phải là vấn đề.
Ông William Luther, nhà kinh tế học và giám đốc Dự án Tiền lành mạnh của Viện Nghiên cứu Kinh tế Hoa Kỳ, nói với The Epoch Times: “Có một số ngân hàng không được phòng ngừa đầy đủ trước các rủi ro lãi suất, nhưng phần lớn các ngân hàng lớn không nằm trong số đó.”
Ông nói: Các ngân hàng lớn nhất của Mỹ “phần lớn không bị ảnh hưởng bởi các vấn đề hiện tại mà chúng ta đang đối mặt, và vì vậy tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu chúng ta chứng kiến kiểu lây lan mà chúng ta đã thấy trong năm 2008.”
Ông Yardeni cho biết: “Cho đến nay, có vẻ như cuộc khủng hoảng tài chính này về căn bản là do ba nhân tố khác biệt, ba ngân hàng có nguy cơ rủi ro cao về lãi suất và rút tiền gửi. Tất cả chúng tôi đang cầu nguyện và hy vọng rằng đây là trường hợp đó và rằng Fed cùng với FDIC [Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang] đã quản lý để ngăn chặn vấn đề này, và nó sẽ không lan rộng thành một cuộc khủng hoảng tín dụng và suy thoái trên toàn nền kinh tế.”
Tuy nhiên, ông Yardeni nói thêm, “một trong những lý do khiến họ nói rằng chính sách tiền tệ có độ trễ dài và hay thay đổi chính là vì những gì chúng ta đang thấy hiện nay. Khủng hoảng ngân hàng không xảy ra ngay lập tức; nó có thể mất một thời gian để phát triển.”
Nền kinh tế Hoa Kỳ ngày nay mạnh mẽ hơn
Ông Luther nói, “Với dữ liệu chúng tôi hiện có, tôi nghĩ rằng [một cuộc khủng hoảng tín dụng] khó có thể xảy ra. Bảng cân đối kế toán của các gia đình vẫn tốt, các doanh nghiệp đang phục hồi và phần lớn đã phục hồi sau đợt giảm sút do COVID-19.”
Ông nói: “Đúng là chúng ta đang đối mặt với một sự bất ổn kinh tế rất khác biệt. Năm 2008, vấn đề chính của chúng ta là tổng cầu không đủ, trong khi đó, vào năm 2020, vấn đề của chúng ta là năng suất giảm đột ngột. Và điều đó chỉ là tạm thời khi chúng ta tìm ra cách ứng phó với COVID.”
Trong khi cuộc khủng hoảng hiện tại vẫn chưa chứng kiến nhiều khoản nợ vỡ nợ, các nhà phân tích không loại trừ khả năng các vấn đề tín dụng sẽ bắt đầu phát sinh. Hai lĩnh vực quan tâm chính là chiến dịch của Fed nhằm chống lạm phát thông qua lãi suất cao hơn và chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, cùng với những tác động của cuộc khủng hoảng cho đến nay đối với sự sẵn sàng cho vay của các ngân hàng.
Khi ngành ngân hàng Hoa Kỳ hợp nhất thành một số lượng công ty ngày càng ít hơn, các cộng đồng nhỏ hơn có thể mất khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng và ngân hàng. Theo ICBA, hiện tại, khoảng một nửa số khoản vay dành cho doanh nghiệp nhỏ được cung cấp bởi các ngân hàng cộng đồng nhỏ hơn. Việc hạn chế cho vay, thường xảy ra khi các ngân hàng gặp khủng hoảng, có tác động lan tỏa khắp nền kinh tế.
Mặc dù người tiêu dùng đang ở trong tình trạng tốt hơn so với thời kỳ khủng hoảng năm 2008, nhưng khả năng tài chính của họ dường như đang xấu đi.
Ông Cole nói, “Sau đại dịch, có rất nhiều chương trình cứu trợ để giúp đỡ người tiêu dùng, vì vậy họ có nhiều tiền hơn so với năm 2008. Nhưng điều đó đang dần thay đổi. Chúng tôi đang thấy số dư thẻ tín dụng ngày càng tăng; chúng tôi đang chứng kiến sự gia tăng trong việc gia hạn tín dụng ở phía người tiêu dùng vốn có thể gây ra vấn đề trong tương lai.”
Ảnh hưởng của việc hợp nhất ngân hàng
Khi các ngân hàng Hoa Kỳ hợp nhất thành một số lượng ngày càng ít các tổ chức, nhiều người lo lắng rằng các cộng đồng nhỏ hơn sẽ bị ảnh hưởng.
Ông Cole cho biết, “Ví dụ, chúng tôi không muốn theo chân những gì đã xảy ra ở Vương quốc Anh. Có những vùng nông thôn của Scotland và miền bắc nước Anh, nơi họ không còn có ngân hàng nữa, và ở những vùng nông thôn đó, không có nơi nào để rút tiền mặt từ một tấm séc, không có nơi nào để vay vốn kinh doanh nhỏ.”
Ông nói: “Điều đó đang dần xảy ra ở các vùng nông thôn của chúng ta. Điều đó làm suy yếu khả năng phát triển và tồn tại của các cộng đồng nhỏ hơn đó, và thực sự đẩy nhanh xu hướng đó từ các khu vực nông thôn đến các khu vực đô thị hơn.”
Ông Luther cho biết Hoa Kỳ là nước độc nhất vô nhị, trong phần lớn lịch sử của nước này, các quy định về ngân hàng đã khuyến khích sự phát triển của các ngân hàng địa phương nhỏ hơn, bao gồm cả những hạn chế đối với các ngân hàng thành lập chi nhánh ở các tiểu bang khác. Ví dụ, năm 1994, Đạo luật Chi nhánh Hiệu quả và Ngân hàng liên bang Riegle-Neal cho phép các ngân hàng thành lập chi nhánh trên khắp các tiểu bang.
Ông Luther nói, “Hậu quả của lịch sử đó là chúng ta có xu hướng có nhiều ngân hàng rất nhỏ. Trong khi đó, nếu quý vị nhìn vào Canada lúc bấy giờ và bây giờ, Canada được đặc trưng bởi các ngân hàng lớn hơn, ổn định hơn nhiều.”
Theo ICBA, sức khỏe của các ngân hàng cộng đồng của Mỹ vẫn tốt.
Ông nói: “Chất lượng vốn và chất lượng tín dụng của chúng ta trong số các ngân hàng nhỏ hơn là tuyệt vời. Và những người của chúng ta đang nói với chúng ta rằng không có dòng tiền gửi bị rút ra, mặc dù có những câu chuyện về dòng tiền gửi chảy ra khỏi các ngân hàng khu vực.”
Tuy nhiên, hiện tại, nhiều nhà phân tích cho rằng cuộc khủng hoảng ngày nay khác xa so với cuộc Đại Khủng hoảng Tài chính.
Giống như sự sụp đổ của S&L vào những năm 80
Ông Luther nói, “Thật hấp dẫn khi so sánh giữa cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và các vấn đề hiện tại trong hệ thống ngân hàng, nhưng sự so sánh phù hợp hơn thực sự là cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay từ những năm 1980. Năm 2008, chúng ta chủ yếu phải đối mặt với rủi ro tín dụng, trong khi ngày nay, các ngân hàng đang phải đối mặt với các vấn đề do lạm phát cao và lãi suất tăng, giống như những năm 1980.”
Trong những năm 1980, các ngân hàng nhỏ hơn được gọi là tiết kiệm và cho vay (S&L) đã nhận các khoản tiền gửi trong thời gian ngắn để cho vay, điển hình là các khoản cho vay bất động sản trong thời gian dài. Một cuộc cạnh tranh không lành mạnh bắt đầu, theo đó người gửi tiền đổ xô đến các S&L, hay còn gọi là các “thrift” (ngân hàng cho phép khách hàng tiết kiệm hoặc vay tiền mua nhà), trả lãi suất cao nhất, thưởng cho những tổ chức tập hợp danh mục cho vay có lợi suất cao nhất, đồng thời cũng là danh mục đầu tư rủi ro nhất.
Theo một báo cáo của Fed, sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành S&L “được thúc đẩy bởi một lượng lớn tiền gửi khi các tổ chức tài chính thrift mất khả năng thanh toán bắt đầu trả lãi suất ngày càng cao hơn để thu hút vốn. Những tổ chức này đang tham gia vào chiến lược ‘đi đến phá sản’ để đầu tư vào các dự án rủi ro hơn và rủi ro hơn nữa, hy vọng chúng sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn.
Vân Du biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times