Những sơ hở khó bào chữa của thuyết tiến hóa (P.6): Những ngộ nhận và điểm mù [2]
Mời quý vị đón đọc Chuyên đề đặc biệt “Nhìn thấu Thuyết tiến hóa.”
Xem thêm: Phần 1, Phần 2, Phần 3, Phần 4, Phần 5.
Ngộ nhận 2: Sự tái tổ hợp trong quá trình giảm phân dẫn đến sự tiến hóa
Sự giảm phân và hình thành phôi thai
Điều ngộ nhận mà chúng ta sắp nói tới có mối liên hệ rất lớn với quá trình giảm phân (meiosis) ở người. Vì vậy, trước tiên chúng tôi xin nhắc lại cho các bạn độc giả nội dung về giảm phân trong môn sinh học mà chúng ta đã học ở trường trung học.
Khi nói đến sự hình thành của phôi, nó nhất định sẽ liên quan đến quá trình giảm phân. Ở đây chỉ giới thiệu về quá trình giảm phân khi sản xuất tinh trùng của người cha, là nội dung của khóa sinh học ở các trường trung học tại Trung Quốc và Hoa Kỳ. Quá trình sản xuất trứng cũng khá tương tự.
Sau khi một người đàn ông trưởng thành, một phần tế bào sinh tinh trong tinh hoàn sẽ bắt đầu tiến hành quá trình giảm phân. Sau khi trải qua giảm phân, tế bào sinh tinh sẽ tạo ra các tế bào mầm trưởng thành, tức tinh trùng.
Quy trình cụ thể như sau:
Trong tế bào sinh tinh có 22 cặp NST (nhiễm sắc thể) thường và 1 cặp NST giới tính. Trong mỗi cặp NST, thì một là đến từ bố và một là đến từ mẹ.
Hai NST được đánh số giống nhau đến từ bố và đến từ mẹ được gọi là NST tương đồng. Trong giai đoạn đầu tiên của quá trình giảm phân, hai NST sẽ tự nhân đôi một cách độc lập. Sau khi nhân đôi, vì mỗi NST đều chứa hai nhiễm sắc tử (Chromatid) chị em nên tổng cộng có 4 nhiễm sắc tử, gọi là tứ phân tử (4 phân tử DNA).
Sau đó sẽ là kỳ tái tổ hợp của tứ phân tử. Giữa các nhiễm sắc tử không phải chị em đã diễn ra sự sắp xếp và trao đổi các đoạn của DNA (giữa các NST tương đồng đến từ bố và mẹ), từ đó dẫn đến trao đổi các gene của bố mẹ, dẫn đến sự tái tổ hợp di truyền. Trên thực tế, sự tái tổ hợp di truyền không gây ra những thay đổi lớn trong cấu trúc của NST.
Tiếp đến là quá trình giảm phân lần thứ nhất, dẫn đến sự phân li của các NST tương đồng và hình thành hai tế bào sinh tinh thứ cấp. Kế tiếp là quá trình giảm phân lần thứ hai, hai NST trong mỗi tế bào sinh tinh thứ cấp phân chia tại tâm động để tạo thành 4 đơn phân, cuối cùng phát triển thành 4 tinh trùng, tất cả đều có các dấu hiệu di truyền đặc biệt. Vào thời điểm này, trong mỗi tế bào tinh trùng hoặc tế bào trứng chỉ có một nửa số NST, tức là 23, vì vậy người ta gọi quá trình này là giảm phân. Chúng sẽ dung hợp với nhau trong quá trình thụ tinh để tạo thành một tế bào bình thường với 46 NST.
“Sự tái tổ hợp trong quá trình giảm phân dẫn đến tiến hóa” là một lý luận sai lầm
Cuốn “Các nguyên tắc di truyền” nói rằng: “Tái tổ hợp là một đặc trưng cơ bản của sinh sản hữu tính. Trong quá trình giảm phân, các NST bắt cặp và trao đổi, khiến giữa các alen có cơ hội tạo ra các tổ hợp mới. Một số tổ hợp trong đó có thể có lợi cho sinh vật do tăng cường khả năng sống sót và sinh sản. Theo thời gian, những tổ hợp có lợi này sẽ lan truyền trong quần thể và trở thành những đặc trưng tiêu chuẩn cấu tạo di truyền của loài này. Vì vậy, tái tổ hợp trong quá trình giảm phân là một con đường để thúc đẩy sự biến đổi di truyền đến những thay đổi tiến hóa tiềm năng” [1].
Xin lưu ý rằng trong tuyên bố này, “có cơ hội” và “có thể có lợi cho sinh vật” chỉ là giả thuyết mà thôi. Các nhà tiến hóa cố gắng chỉ ra rằng, trong quá trình giảm phân, do những thay đổi trong quá trình trao đổi các đoạn DNA của bố và mẹ mà dẫn đến tiến hóa.
Trên thực tế, sự tái tổ hợp là dưới điều kiện mã DNA và gene tương xứng mà tiến hành trao đổi phân đoạn. Tái tổ hợp có thể sinh ra sai khác, nhưng đây chỉ là sai khác vốn có, đã có một sự kết hợp mới chứ không hề xảy ra đột biến. Nếu không phải như vậy, trải qua quá trình di truyền hơn 10,000 lần trong hai mươi mấy vạn năm thì gene của con người đã có sự khác biệt đáng kể, và sự khác biệt trung bình của DNA sẽ không duy trì ở mức 1/1,000.
Ngay cả đột biến làm thay đổi mã trong đoạn DNA của gene trong quá trình nhân đôi NST, loại đột biến này nếu là trung tính thì sẽ không ảnh hưởng đến các yếu tố sinh lý của gene, nếu là đột biến có thể gây ra bệnh thì sẽ bị đào thải trong quá trình di truyền lâu dài. Xưa nay đều không tìm thấy có gene đặc biệt nào khiến quần thể người có gene như vậy tiến hóa hơn những người khác. Sự tái tổ hợp trong quá trình giảm phân “thúc đẩy sự biến đổi di truyền đến những thay đổi tiến hóa tiềm năng” chỉ là một giả thuyết theo tư duy tiến hóa, không có bằng chứng nào về mã DNA.
Xét từ NST và DNA, sinh vật luôn bảo trì tính bất biến
Chỉ trong 50 năm gần đây, thông qua nghiên cứu khoa học sinh học, người ta mới có sự hiểu biết rõ ràng hơn về NST và DNA. Còn về phương diện hệ thống tri thức của khoa học tự nhiên, công nghệ của các thời kỳ khác nhau đã làm hạn chế sự hiểu biết của con người. Hơn 100 năm trước, khi người ta nhận định rằng con người tiến hóa từ loài vượn cổ đại, lúc đó không có kính hiển vi công suất cao và cũng không có công nghệ phân tích DNA. Có thể thấy rằng, sự hiểu biết lúc bấy giờ nhất định đã bị hạn chế bởi các phương tiện khoa học và công nghệ.
Chúng ta hãy xem một ví dụ cụ thể: sự giao phối của ngựa và lừa có thể tạo ra một con la, nhưng sự giao phối của một con la đực và một con la cái lại không thể tạo ra một con la con. Trước đây người ta cho rằng “xương chậu phía sau con la không thể đóng mở nên không thể sinh con”, nhưng bây giờ người ta biết rằng đó là do số lượng NST đã hình thành sự cách ly loài. Ngựa có 64 NST, lừa có 62 NST, còn những con la mà chúng giao phối sinh ra có 63 NST. Các con la không có khả năng sinh sản là vì NST của các động vật khác nhau không thể trải qua quá trình tái tổ hợp trong khi giảm phân một cách bình thường.
Cả sư tử và hổ đều có 38 NST (19 cặp), và chúng chỉ có 1-2% xác suất giao phối với nhau để sinh ra “sư hổ” (Liger, hay hổ sư). “Sư hổ” cũng rất ít có khả năng sinh ra thế hệ tiếp theo với sư tử hoặc hổ, mà đó sẽ là sư tử hoặc hổ bình thường, và chưa hề có loài “sư hổ” mới nào được tìm thấy. Lý do của nó cũng giống như con la.
Tại sao sư tử và hổ có cùng số lượng NST mà cũng không thể giao phối để sinh ra loài mới? Nguyên nhân cơ bản của điều này là do NST của các loài khác nhau có sự khác biệt về mã DNA, chúng không thể sắp xếp và tái tổ hợp trình tự mã DNA trong quá trình giảm phân, do đó cũng sẽ không tạo ra loài mới.
Việc các động vật thuộc các loài khác nhau không có khả năng giao phối để tạo ra “thế hệ tiếp theo có khả năng sinh sản”, vẫn là một khoảng cách không thể vượt qua đối với một số thuyết tiến hóa mới.
Cải tiến lai thực chất là một căn bệnh
Vào thế kỷ 18, Frise, một nhà sinh vật học nổi tiếng, đã nghiên cứu thí nghiệm lai tạp giữa các loài hoa thuộc họ “anh thảo” và phát hiện ra rất nhiều “loài mới”. Ông cho rằng là đột biến đã tạo ra các loài mới, do đó ông đã viết ra “Thuyết đột biến”. Kỳ thực dưới góc độ mã DNA, chúng vẫn là “hoa anh thảo”, thuộc về hiện tượng sai lệch NST hoặc sắp xếp lại NST mà có thể dẫn đến các bệnh biến nghiêm trọng và tử vong. Trên thực tế, khi ông đang trồng thế hệ thứ năm của một cây “hoa anh thảo” khổng lồ thì đã không thể tiếp tục, nó đã chết. Những người mắc bệnh người lùn và bệnh khổng lồ đều biết rằng họ bị bệnh. Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu mong đợi trong nghiên cứu khoa học hiện đại, người ta đã chọn dùng nhiều phương pháp khác nhau để truy cầu năng suất cao và khả năng kháng thuốc trừ sâu, v.v.
Trên thực tế, cấu trúc hóa học của gene trong mỗi lần đột biến đều sẽ bị tổn thương vi mô, và khi tổn thương đến một mức độ nhất định, chắc chắn nó sẽ chết. Nếu kích thích bên ngoài đủ mạnh, đột biến một lần là đã có thể gây tử vong.
Sau khi Nhật Bản và Ukraine bị nhiễm phóng xạ tia hạt nhân, có một số con chuột đã trở nên to bằng con mèo, đây thực chất là một sự thoái hóa nghiêm trọng do đột biến gene. Cái gọi là “giống lúa cải tiến” cũng giống như cây “hoa anh thảo” khổng lồ do Frise trồng, nó có thể khiến một mẫu ruộng cho sản lượng hơn 1,000 kg/sào, tuy nhiên nếu “cải tiến” tiếp thì nó sẽ chết. Giống lúa “Lưỡng ưu 0293” do các chuyên gia trồng lúa Trung Quốc gây giống đã bị giảm sản lượng trên diện rộng và thất thu, chính là một ví dụ điển hình.
Hiện tại, chưa có dữ liệu về việc liệu loại lúa năng suất cao bị đột biến này có gây hại cho con người hay không. Tuy nhiên, thí nghiệm với những con chuột ăn ngô biến đổi gene cho thấy trọng lượng, chiều dài và số lượng của chuột đều giảm đi đáng kể. 45% lượng bò của Hoa Kỳ được cho ăn thức ăn biến đổi gene đã sinh non, làm dấy lên nghi ngờ về việc liệu biến đổi gene có liên quan đến việc giảm khả năng sinh sản hay không.
Ngộ nhận 3: NST X và Y được biến đổi từ NST thường
“Hai NST giới tính hiện nay được cho là có nguồn gốc từ một cặp NST thường sau khi dòng dõi tiến hóa của động vật có vú tại một thời điểm nào đó đã tách ra khỏi dòng dõi của loài bò sát cổ đại, mà sau này trở thành khủng long, cá sấu và chim. Đại khái vào khoảng 240 triệu đến 320 triệu năm trước, một sự đảo ngược vị trí trên NST mà về sau trở thành NST Y đã dẫn đến việc ngăn chặn sự tái tổ hợp mang tính khu vực giữa các NST X và Y” [2].
Đây là một phỏng đoán rất vô lý, một suy luận mông lung. Cơ sở cho kết luận này là gì? Là đến từ mã DNA của khủng long và cá sấu cách đây hàng trăm triệu năm sao?
Trên thực tế, rất nhiều hóa thạch sống đã chứng minh sự vô lý của suy luận này. Cá sấu là hóa thạch sống phân bố rộng rãi nhất, và chúng hầu như không thay đổi về hình dạng trong 230 triệu năm kể từ khi khủng long thống trị Trái Đất cho tới nay. Điều này cũng đúng với các hóa thạch sống khác như thú mỏ vịt và gấu trúc v.v. Bởi vì mã DNA như thế nào thì sẽ có hình dạng như thế nấy, hình dạng của chúng không phát sinh biến hóa, nói lên rằng mã DNA cũng không phát sinh biến hóa gì.
Thuật ngữ hóa thạch sống lần đầu tiên được đề xuất bởi Darwin, nhưng nó lại đã trở thành một vết thương trí mạng đối với thuyết tiến hóa. Các nhà tiến hóa sau này đã cố gắng bù đắp khiếm khuyết này, tìm kiếm rất nhiều bằng chứng gián tiếp, và còn tiến hành phân tích gene để cố gắng chứng minh rằng cá sấu cũng tiến hóa. Nhưng họ đã làm điều đó một cách có mục đích, những bằng chứng gián tiếp đó chỉ chuyên nhặt ra những phần rất nhỏ và so sánh chúng, giống như một người mù sờ voi, không cách nào nhận thức được một cách tổng thể.
Phân tích gene cũng là chuyên chọn ra những đoạn gene dễ bị đột biến để phân tích, dù vậy cũng phải thừa nhận rằng cá sấu có tổ tiên chung cách đây 10 triệu năm, và không có sự thay đổi nào đáng kể.
Nói tóm lại, con người và các sinh vật khác có “bộ gene” độc nhất vô nhị của riêng mình, và mã DNA của các sinh vật là có trình tự. Trình tự mã DNA của con người là nhất quán; mỗi loài đều có “trình tự vô cùng nhất quán” của riêng mình. Một trình tự nhất quán là không thể tạo ra bằng cách ngẫu nhiên. Cơ chế “sản sinh ngẫu nhiên” sẽ không bao giờ tạo ra kết quả là “mã hóa có trật tự”, và càng không có khả năng tạo ra bộ gene riêng lẻ cho từng loài. Đây là lý do tại sao cả thuyết tiến hóa và thuyết diễn hóa đều không thể đứng vững được khi đối mặt với mã DNA.
Xem tiếp: Phần 7
Tài liệu tham khảo:
Kiều Kỳ biên tập
Xuân Hoàng biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ