Ngành địa ốc Trung Quốc báo hiệu suy thoái lớn của nền kinh tế
Theo số liệu chính thức của Trung Quốc, từ tháng Một đến tháng Bảy năm nay, trong số 10 công ty địa ốc Trung Quốc hàng đầu mua được đất tại các thành phố trọng điểm, 80% là doanh nghiệp nhà nước. Một xu hướng tương tự cũng được quan sát thấy trong các ngành công nghiệp khác ở Trung Quốc. Các nhà phân tích tin rằng đây không chỉ là dấu hiệu cho thấy “khu vực nhà nước tăng tiến, khu vực tư nhân thoái lui” —một câu cửa miệng của Trung Quốc mô tả xu hướng các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục mở rộng trong khi khu vực tư nhân không ngừng thu hẹp — mà còn là khả năng Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cầm quyền sẽ mang lại một nền kinh tế kế hoạch hóa trong thời kỳ hậu đại dịch.
Các công ty nhà nước độc quyền thị trường nhà ở
Hôm 30/07, Học viện Chỉ số Trung Quốc đã công bố Xếp hạng 100 doanh nghiệp Địa ốc Hàng đầu trong Thâu tóm Đất từ tháng 01-07/2022, cho thấy từ tháng 01 đến tháng 07, tổng diện tích đất mà 100 doanh nghiệp hàng đầu mua lại có trị giá 802.4 tỷ nhân dân tệ (117.7 tỷ USD), giảm 55.6% so với cùng thời kỳ năm trước. Các doanh nghiệp nhà nước và các nền tảng đầu tư đô thị ở địa phương trở thành những công ty mua chính trong các giao dịch đấu giá đất, với 80% trong số 10 doanh nghiệp mua đất nhiều nhất ở các thành phố trọng điểm là các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc, vốn từng rất tích cực trong việc thâu tóm đất trước đây, chỉ chiếm 17% doanh thu trong 7 tháng đầu năm nay.
Xu hướng này đặc biệt đúng ở các thị trường địa ốc nóng như Quảng Châu, Thượng Hải, Bắc Kinh, Nam Kinh, và Thành Đô, nơi các doanh nghiệp nhà nước là bên mua đất chủ yếu.
Ví dụ, ở Thượng Hải, đất do các doanh nghiệp nhà nước mua chiếm tới 95%. Tại Bắc Kinh, một cuộc đấu giá đất quy mô lớn đã được tổ chức hôm 01/06. Trong số 30 công ty địa ốc Trung Quốc tham gia, thì chỉ có 3 công ty là công ty tư nhân.
Cưỡng ép tái cấu trúc doanh nghiệp
Xu hướng tương tự cũng được quan sát thấy trong ngành thép.
Ví dụ, vào năm 2009, công ty Thép Nhật Chiếu (Rizhao Steel), một công ty tư nhân và là một trong 10 doanh nghiệp thép hàng đầu ở Trung Quốc, đã được mua lại và sáp nhập vào công ty nhà nước Thép Sơn Đông. Theo China Newsweek, Chủ tịch Đỗ Song Hoa (Du Shuanghua) không đồng ý với việc tái cấu trúc, nhưng chính quyền tỉnh Sơn Đông đã đóng vai trò điều phối viên có thẩm quyền để khiến hai công ty này ký thỏa thuận tái cấu trúc. Mục đích là để đáp ứng mục tiêu của chính phủ là tập trung 70% công suất sản xuất thép trong tỉnh vào Tập đoàn Thép Sơn Đông thông qua việc mua bán và sáp nhập trong vòng 5 năm.
Kế hoạch Điều chỉnh và Phục hồi Ngành thép do chính quyền Trung Quốc công bố vào tháng 03/2009 quy định rằng đến năm 2011, 45% năng lực sản xuất thép của Trung Quốc sẽ tập trung vào 5 công ty thép hàng đầu. Kế hoạch ngành này thậm chí còn đưa ra các kế hoạch M&A và tái cấu trúc cụ thể. Ví dụ, kế hoạch này bao gồm các quy trình hoạt động cụ thể “thúc đẩy tái cấu trúc xuyên khu vực giữa công ty Anben và công ty Pansteel, công ty Thép đặc biệt Đông Bắc, công ty Baosteel and Baosteel, công ty Ningbo Steel, v.v., và thúc đẩy tái cấu trúc nội vùng giữa công ty Thép Thiên Tân và công ty Thiên Thiết (Tiantie), Công ty Tiansteel, Công ty Luyện kim Thiên Tân, và sự sáp nhập của công ty Thái Cương và các doanh nghiệp thép khác trong tỉnh.”
Đường Sơn, thành phố sản xuất thép hàng đầu của Trung Quốc, đã trải qua quá trình giảm công suất thép vào năm 2016, theo chỉ thị của chính phủ trung ương. Nhà phân tích Mã Khanh Phong (Ma Qingfeng) của China United Steel đã nói với tạp chí kinh doanh Doanh nhân Trung Quốc rằng tất cả các nhà máy thép ngừng hoạt động là doanh nghiệp tư nhân, trong khi các nhà máy thép tư nhân còn lại hoặc đã ngừng đầu tư vào các lò cao mới từ năm 2011 hoặc chuyển giao quyền quản lý cho các doanh nghiệp nhà nước.
Trong một bài báo năm 2018, tổ chức Mạng lưới Chất thải Rắn Trung Quốc đã thảo luận về “những sự tăng tiến của nhà nước, sự thoái lui của khu vực tư nhân” trong ngành môi trường, chỉ ra rằng các chính sách xóa nợ và giảm công suất có tác động ngược lại đối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp nhà nước đã được hưởng những tác dụng kép — sản lượng và giá cả tăng lên — do sự suy giảm công suất cùng với nhu cầu phục hồi, trong khi các doanh nghiệp tư nhân đã thành nạn nhân nghiêm trọng.
Thoái lui thị trường hóa
Ông Bảo Dục Quân (Bao Yujun), Chủ tịch Hiệp hội Khu vực Tư nhân Trung Quốc, nói với báo chí Trung Quốc rằng ông tin rằng một thị trường bão hòa với các doanh nghiệp nhà nước đồng nghĩa với sự thụt lùi trong quá trình thị trường hóa và việc phân phối các nguồn lực xã hội và kinh tế trong tương lai có thể bị bóp méo hơn nữa, thậm chí dẫn đến hiệu quả về năng suất còn thấp hơn.
Mặc dù các doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc sở hữu rất nhiều nguồn lực nhưng lại hoạt động rất kém hiệu quả. Theo thống kê của Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia của ĐCSTQ, trong số các doanh nghiệp công nghiệp trên một mức quy mô được chỉ định, giá trị công nghiệp và lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước lần lượt tăng 10.7% và 17.4% so với cùng thời kỳ năm ngoái. Trong khi đó, tỷ lệ này của các doanh nghiệp tư nhân tăng lần lượt là 25.3% và 47.3%.
Hơn nữa, trong số 41.1 triệu doanh nghiệp ở Trung Quốc, có 368,000 doanh nghiệp ở trên mức quy mô chỉ định, chỉ chiếm 0.9%, trong đó hầu hết là doanh nghiệp nhà nước, trong khi hơn 99% có quy mô dưới mức chỉ định và thuộc sở hữu tư nhân. Trong số 750 triệu người có việc làm của Trung Quốc, 73 triệu người làm việc cho các doanh nghiệp quy mô lớn và hơn 90% còn lại là việc làm cho các doanh nghiệp quy mô dưới mức chỉ định, trong đó các doanh nghiệp tư nhân đóng một vai trò quan trọng trong tạo việc làm.
Các doanh nghiệp nhà nước gần như độc quyền sản xuất dầu thô, khí đốt tự nhiên, và ethylene của Trung Quốc, cũng như các dịch vụ viễn thông căn bản và các dịch vụ sinh lời cao khác.
Theo kế hoạch của Ủy ban Giám sát và Quản lý Tài sản Nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước sẽ mở rộng hơn nữa sự thống trị và cuối cùng duy trì “quyền kiểm soát tuyệt đối” đối với bảy ngành công nghiệp căn bản — công nghiệp quân sự, lưới điện, dầu khí và hóa dầu, viễn thông, than, hàng không dân dụng, và vận chuyển — và “kiểm soát mạnh mẽ hơn” đối với các ngành trụ cột như sản xuất thiết bị, xe hơi, thông tin điện tử, xây dựng, thép, kim loại màu, hóa chất, khảo sát và thiết kế, cũng như công nghệ căn bản.
Trên tờ China Newsweek, nhà văn Đinh Lệ Đình (Ding Liting) viết rằng Trung Quốc phải kiên quyết chấm dứt tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước và xu hướng “nhà nước tăng tiến, khu vực tư nhân thoái lui.”
Ông viết: “Việc tổ chức lại và sáp nhập đang diễn ra dẫn đến “sự tăng tiến của khu vực nhà nước, thoái lui của khu vực tư nhân” không phản ánh định hướng thị trường đối với sự tồn tại của những doanh nghiệp tốt nhất, mà là sự thâu tóm sáp nhập của các doanh nghiệp nhà nước với việc bơm tiền của chính phủ và các khoản vay ưu đãi. Việc mở rộng các công ty nhà nước và thu hẹp khu vực tư nhân là một thực tế khách quan, và nó không hiệu quả, phản thị trường, với xu hướng độc quyền rõ ràng. Nếu chúng ta phân tích một cách tổng thể nền kinh tế quốc gia, thì tác hại của tính độc quyền do việc sáp nhập và tổ chức lại do con người thao túng như vậy gây hại nhiều hơn lợi.”
Giáo sư Chương Thiên Lương (Zhang Tianliang), một chuyên gia về Trung Quốc, tin rằng vấn đề đáng lo ngại này vượt xa hơn chuyện “sự tăng tiến của nhà nước, sự thoái lui của khu vực tư nhân.”
Ông nói với The Epoch Times: “Có khả năng cao là ĐCSTQ có kế hoạch trở lại nền kinh tế kế hoạch hóa, tức là để các doanh nghiệp nhà nước tái chiếm một nửa nền kinh tế Trung Quốc. Đây là một tình huống rất nghiêm trọng có thể xảy ra trong thời kỳ hậu đại dịch.”