Lời nguyện cầu vang vọng của Tướng Washington tại Thung lũng Forge
Cũng như những người Mỹ khác, George Washington luôn cầu nguyện trước Đấng Thiêng Liêng tại những thời khắc quan trọng nhất, và ai có thể nói chắc chắn rằng những lời cầu nguyện của ông đã không làm thay đổi tiến trình của lịch sử.
Đó là vào tháng 12/1777, một trong những thời kỳ gian nan nhất của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng Hoa Kỳ. Quân Đội Lục Địa đã chiến thắng một số trận chiến; tuy nhiên, áp lực tinh thần của họ cũng vô cùng to lớn vì họ đã thất bại ở một số trận chiến quan trọng như trận Long Island, trận New York, trận White Plains, và trận Bennington. Thông thường thì các đội quân sẽ đồn trú để hồi phục trong những tháng mùa đông. Tướng George Washington đã lựa chọn chỗ đóng quân của mình là ở 25 dặm về phía Bắc của tiểu bang Philadelphia, gần Thung Lũng Forge. Đó là một vị trí chiến lược – Quân Đội Anh đã chiếm được tiểu bang Philadelphia vào mùa Thu năm đó và tại khu vực này có một số con lạch nhỏ có thể ngăn cản các cuộc tấn công bởi lợi thế của địa hình tự nhiên.
Có thể thấy dự liệu thảm khốc của 12,000 con người đang đồn trú tại Thung Lũng Forge. Những con đường đã bị tắc nghẽn hoàn toàn bởi tuyết trắng. Quân Đội Lục Địa đã không được cung cấp đầy đủ vật tư cũng như lương thực. Những con người bị bỏ quên với áo quần rách nát, không giày dép và đầu bù tóc rối. Những túp lều được dựng lên tạm bợ bằng gỗ vừa tối vừa lạnh, sàn thì dơ bẩn, chỉ có một cái hố lửa và một tấm vải làm cửa, mười hai con người chen chúc trong một cái lều như thế, điều đó đã dẫn việc nhiễm bệnh khó kiểm soát.
Các nhà sử học đã ước tính có đâu đó khoảng 2,000 đến 3,000 binh lính đã chết vào mùa đông khắc nghiệt đó. Trong khi ở tiểu bang Philadelphia, đội quân Red Coats [Quân đội nước Anh] được chăm sóc rất kỹ lưỡng, đồn trú trong chính các căn nhà của người dân Hoa Kỳ, tận dụng nguồn cung cấp vật tư của họ trong khi đồng thời kiểm soát và ngăn chặn không cho thành phố gửi tiếp tế đến cho những người lính ở Thung Lũng Forge.
Theo câu chuyện được Reverend Snowden kể lại trong quyển “Diary and Remembrances [Nhật Ký và Hồi Ức]”, ông Isaac Potts, là một tín hữu Công giáo, một thành viên Đảng Bảo Thủ Anh và là một người theo chủ nghĩa hòa bình, thường băng qua các rừng cây ở Thung Lũng Forge trong suốt mùa đông.
“Tôi đã nghe loáng thoáng thanh âm ảm đạm từ một người đang cầu nguyện,” ông Potts nói. “Tôi đã buộc lại ngựa của mình vào một nhánh cây nhỏ và âm thầm đi vào trong rừng. Tôi ngạc nhiên tột cùng khi trông thấy Tướng quân George Washington vĩ đại đang một mình lặng lẽ quỳ gối tại nơi đó, với thanh gươm đang đặt ở một bên và chiếc nón thì ở bên còn lại. Ông đang cầu nguyện trước vị Thần của các đội quân, đang cầu xin cho sự cứu giúp thiêng liêng của Ngài để có thể vượt cuộc khủng hoảng với quân đội của ông, với đất nước của ông, với nhân loại và với cả thế giới. Tôi chưa từng nghe được lời cầu nguyện như vậy từ miệng của bất kỳ một con người nào khác. Tôi đã để ông cầu nguyện một mình ở đó.
Tôi quay về nhà và nói với vợ mình, “Hôm nay anh đã nghe và chứng kiến một sự việc mà anh chưa từng thấy trước đây,” rồi kể lại với cô toàn bộ sự việc mình vừa trải qua. Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một con người có thể vừa là chiến binh cũng vừa là một tín hữu Công giáo, nhưng nếu người như vậy là có thật, thì đó chính là Tướng quân George Washington. Vợ tôi đã vô cùng kinh ngạc vì điều này. Và chúng tôi đã nghĩ rằng bởi vì có Chúa, Hoa Kỳ đã có thể giành được thắng lợi.”
Một thời khắc quan trọng
Đó không chỉ là một thời khắc quan trọng đối với ông Isaac Potts – ông đã chuyển sang Đảng Whig*, lúc bấy giờ ông là người ủng hộ cho cuộc chiến – mà cũng chính là thời điểm quan trọng đối với Quân Đội Lục Địa. Nam tước von Steuben lên giữ vai trò lãnh đạo, áp dụng những chỉ đạo của ông về “Quy định kỷ luật của Quân Đội Hoa Kỳ.” Ông đã lập ra một bảng kế hoạch, tiến hành các cuộc tập trận, hướng dẫn sử dụng lưỡi lê, khai triển các đội hình chiến đấu cũng như các cuộc diễn tập. Mùa xuân năm 1778 đã đem người dân hai nước Pháp và Hoa Kỳ xích lại gần nhau. Nước Pháp và người Mỹ đã bổ sung thêm lương thực, vật tư, đường bộ và cả những cây cầu mới. Tháng 06/1778, nước Anh đã bỏ lại Philadelphia và rút quân đội về New York. Vào cuối tháng đó, quân đội nước Anh đã rút lui tại Trận chiến Monmouth ở tiểu bang New Jersey. Ngày càng có nhiều quân cờ domino tiếp tục rơi xuống, và đến cuối cùng thì nước Anh cũng đã đầu hàng tại Yorktown, tiểu bang Virginia vào năm 1781.
Lời cầu nguyện của Washington được nhiều người xem là một dấu ấn quan trọng đã làm thay đổi quỹ đạo của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng Hoa Kỳ. Thời khắc quan trọng này đã được miêu tả bởi rất nhiều tác phẩm nghệ thuật khác nhau, trong đó có bức tranh của họa sĩ Arnold Friberg, “The Prayer at Valley Forge.” George Washington là một người sùng đạo. Ông có một niềm tin sâu sắc và vừng mạnh rằng Chúa đã đặt ông vào vị trí này và nhất định chiến thắng sẽ đến với toàn bộ người dân Hoa Kỳ. Ông liên tục cầu nguyện trong nhiều ngày và trai giới để tìm kiếm sự chỉ dẫn thiêng liêng của Chúa trong những thời khắc nguy nan. Niềm tin của Washington vào tự do tôn giáo và lương tâm đã được minh chứng bởi sự ủng hộ của ông đối với Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, sự tôn trọng của ông đối với nguyên tắc đạo đức của những tín hữu Công giáo, cũng như sự bảo đảm của ông đối với Hội Thánh Tiếng Do Thái ở Newport, Rhode Island, rằng họ có thể tận hưởng “thực hành các quyền tự nhiên vốn có” của họ, và chính phủ sẽ bảo vệ tự do tín ngưỡng cho tất cả mọi người.
Đất nước này đã có nhiều nhà lãnh đạo mẫu mực khác nhau, những người đã đáp lại lời kêu gọi và thể hiện sự tôn sùng của họ đối với Chúa cũng như các nguyên tắc cao cả hơn mà từ đó luật pháp đã được thành lập nên. Và những lời cầu nguyện của họ dường như đã được đáp lại, cùng với thời gian và quỹ đạo của đất nước này đã thay đổi. Hãy nghĩ về Tổng thống Abraham Lincoln, Mục sư Martin Luther Ling, Cha con Tổng thống John F. Kennedy. Những nhà lãnh đạo nổi bật với các phát ngôn cũng như bài viết với từ ngữ vô cùng khiêm tốn thừa nhận rằng tất cả quyền lợi của chúng ta là đến từ Chúa, chứ không phải liên bang. Đó chính là một sự thật khách quan và cũng là điều hiển nhiên. Sự lãnh đạo của họ đã thay đổi quỹ đạo của đất nước, vượt qua nghịch cảnh, và cuối cùng thì đất nước cũng đã được ban phúc lành.
Vào năm 1982, Tổng thống Ronald Reagan, một nhà lãnh đạo lỗi lạc khác của đất nước chúng ta, đã viết: “Tôi đã từng nói trước đây rằng bức ảnh cao quý nhất trong lịch sử đất nước Hoa Kỳ là cảnh tượng Tướng Quân George Washington quỳ gối trên tuyết ở Thung Lũng Forge. Bức tranh đó là hiện thân của một con người hiểu biết rõ ràng rằng chỉ với sự cố gắng và lòng tốt thôi là chưa đủ. Chúng ta cần phải tìm kiếm sự giúp đỡ của Đấng Tối cao – người Cha và người bảo hộ nhân loại chúng ta.” Tổng thống Reagan đã trưng bày bức tranh của họa sĩ Arnold Friberg tại Tòa Bạch Ốc trong suốt tám năm tại vị của ông.
Về phương diện lịch sử với tư cách là một quốc gia, trong suốt thời kỳ chia rẽ, người dân Hoa Kỳ đã thấu hiểu được sức nặng của thời khắc này, cũng giống như các nhà lãnh đạo lỗi lạc trước đó và công dân Hoa Kỳ đương đại, đã quay trở lại với Đấng Thiêng Liêng và các nguyên tắc thấm nhuần trong các tài liệu lập quốc. Trong những năm vừa qua, dường như trái đất lại một lần nữa bị rung chuyển. Không quá bất ngờ khi doanh số bán Kinh Thánh tăng vọt và ngày càng có nhiều người dân quan tâm hơn và tìm hiểu về các di sản của đất nước chúng ta. Tinh thần Mỹ một lần nữa trỗi dậy và tươi mới hơn thông qua sự chú tâm vào khía cạnh tôn giáo và văn hóa.
Ghi chú của dịch giả:
Hoàng Long biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc tại The Epoch Times