Giải mã Israel (P1): Dân tộc sống sót vĩ đại
Mọi sự đã biến mất, nhưng người Do Thái thì không. Tất cả các thế lực khác đã trôi vào quá vãng, nhưng họ vẫn còn. Bí mật trong sự bất tử của họ là gì? (Văn hào Mark Twain).
Lời tựa:
Một dân tộc nhỏ bé mất tổ quốc đã hơn 2,000 năm, chịu cảnh thiên di, sống lưu vong, phiêu bạt khắp nơi trên thế giới, tới đâu cũng bị hắt hủi, nghi kỵ, trục xuất, chịu đủ những cảnh thảm nhục, tàn sát không sao tưởng tượng nổi. Cuối cùng, họ đã sống sót khỏi ách nô lệ Đế chế Ai Cập, họ đã sống sót sau sự tận diệt của đế chế Hy Lạp, họ đã sống sót dưới sự đàn áp của Đế chế La Mã, họ đã sống sót khỏi tòa án dị giáo Tây Ban Nha, họ đã sống sót những lò sát sinh Âu Châu, họ đã sống sót sau nạn diệt chủng Đức Quốc Xã, họ đã sống sót khỏi sự tấn công 7 nước Ả-Rập… Các đế chế từng đàn áp họ đã biến mất khỏi vũ đài lịch sử, còn họ vẫn tồn tại.
Loạt bài viết này nhằm đưa ra kiến giải về những bí ẩn trong sự bất tử của Israel. Làm thế nào một đất nước với lịch sử 2000 năm lưu vong, rồi lập quốc với một mảnh đất nhỏ bé, khô cằn, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, lại có thể tồn tại giữa sự thù địch của các quốc gia lân cận, đối phó với những cuộc chiến giữ vững bờ cõi mà vẫn tạo ra sự sáng tạo vượt bậc, đứng ở đỉnh cao trong rất nhiều lĩnh vực với những con người tiên phong, tư tưởng vượt tầm thời đại, tạo nên sự phát triển thần kỳ và có đóng góp to lớn cho nhân loại.
Không chỉ sống sót sau mấy ngàn năm lưu vong, người Israel còn vẫn giữ được bản sắc, tiếng nói, chữ viết và tập tục của mình. Họ đã duy trì được nó giữa những nghịch cảnh khủng khiếp khó có thể tưởng tượng được. Sức chịu đựng phi thường này từ đâu ra, sức mạnh ý chí đặc biệt cháy bỏng nào khiến người Do Thái khác biệt và giữ cho họ thuần nhất. Họ đóng vai diễn nào trên sân khấu nhân loại? Lịch sử bi tráng của họ có ý nghĩa gì? Thông qua trường thiên sử thi bi thảm và oanh hùng của họ, mỗi dân tộc đều có thể tìm thấy đáp án cho vận mệnh của chính mình…
Chúa thì chọn mà con người lại ruồng bỏ
Người Israel là sở hữu một tư liệu lịch sử cho phép họ lần lại nguồn gốc của mình từ nhưng thời rất xa xưa, khi Thượng đế tạo ra loài người. Cuốn Kinh Thánh cổ xưa ghi lại lời Thiên Chúa rằng: Israel là dân được Chúa chọn, Ngài đặt tên Israel cho dân tộc này và một “miền đất hứa” “đầy hoa và mật”. Bởi thế người Israel thường được gọi là con dân của Kinh Thánh, bởi vì Kinh Thánh đã ghi lại lịch sử của người Israel. Khi La Mã chiếm xứ Judea, đã dùng một tên mới để gọi “con cháu Israel”, tên đó người Pháp gọi là Juif, có nghĩa là dân xứ Judea, người Trung Hoa phiên âm là Do Thái)
Vậy nhưng, điều đó không ngăn cản người Israel trở thành mục tiêu tấn công của những người ngoại giáo và hết thảy các đế quốc hùng mạnh. Israel đã trải qua một lịch sử đầy thăng trầm, trải qua nhiều cuộc chiến cũng luôn là mục tiêu của các tấn công khủng bố nhiều hơn bất kỳ một quốc gia nào khác. Lịch sử của Israel đầy máu và đẫm lệ trong sự thù hận của loài người, đến nỗi “bài Do Thái” trở thành một thứ chủ nghĩa toàn cầu và vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay.
Lịch sử cho thấy, trong vòng 2,000 năm qua, người Israel đã bị trục xuất khỏi hơn 80 quốc gia khác nhau. Mặc dù thuật ngữ “bài Do Thái” xuất hiện từ thế kỷ 19 tuy nhiên chủ nghĩa bài Do Thái đã tồn tại từ thời cổ đại. Những “đứa con của Abraham” (thủy tổ người Do Thái) đã luôn tự biết và nhận mình là “người khách trọ, người ngụ cư” và tất cả đều không được ưa thích. Tại sao thế giới căm ghét người Israel? Tại sao chủ nghĩa bài Do Thái lan tràn ở nhiều quốc gia? Nguồn gốc của hiện tượng này là từ đâu?
Kỳ thị tôn giáo
Sự khác biệt giữa người Do Thái với người không phải Do Thái chính là tôn giáo của họ. Do Thái giáo được xem là một trong những tôn giáo độc thần cổ đại nhất thế giới với chiều dài lịch sử hơn 3000 năm. Từ dân tộc Do Thái đã ra đời ba tôn giáo lớn nhất và ảnh hưởng nhất trên thế giới, khởi đầu là Do Thái giáo vào khoảng năm 1800 TCN, tiếp theo là Cơ đốc giáo được Chúa Jesus sáng lập vào giữa thế kỷ I như một nhánh ly khai từ Do Thái giáo, và sau đó là Hồi giáo được nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào thế kỷ XI.
Một tôn giáo độc thần là gì? Đó là niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất. Israel chính thức được thừa nhận như một dân tộc và được đặt tên là Israel, là bởi một giao ước từ Thiên Chúa khi Ngài hứa với Abraham, tổ phụ của người Israel ban cho họ xứ Canaan. Thánh Kinh chép lại lời giao ước của Ngài: “Ta là Thiên Chúa toàn năng, và Ta lập Giao ước với ngươi. Ngươi sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc, và để đánh dấu Giao ước này, ngươi sẽ đổi tên thành Abraham (có nghĩa là “cha của nhiều dân tộc”). Ta sẽ giữ lời hứa, và xứ Canaan sẽ thuộc về ngươi và dòng dõi của ngươi đời đời; và Ta sẽ là Thiên Chúa của họ.”
Theo giao ước này thì dân tộc Do Thái chỉ tôn thờ một Thiên Chúa, và Thiên Chúa sẽ chọn Do Thái làm dân riêng của ngài, quan niệm này về sự giao ước giữa thiên chúa và con người là cốt lõi của thần học của Do Thái giáo. Xứ Canaan (vùng đất Israel ngày nay) về sau được gọi là Đất Hứa (Promised Land) là vì vậy.
Vào thời đó, hầu hết cư dân của thế giới đều tôn thờ các vị Pharaon, các vị thần và ngẫu tượng. Riêng người Israel chỉ thờ duy nhất một vị thần – Thiên Chúa – Đấng bảo hộ đặc biệt và cao nhất của họ.
Điều khác biệt giữa Chúa của người Israel và những vị Chúa của người ngoại đạo khác, Chúa của người Israel là một thể vô hình. Vị Chúa đó không mang một hình dạng cụ thể. Người ta không thể nhìn thấy vị Chúa đó. Người ta chỉ có thể tưởng tượng. Hy Lạp hay La Mã chẳng hạn, cũng có những vị Chúa được xác định rõ ràng bằng hình tượng. Cái gì nhìn thấy được là có được. Cái gì không thấy tức là không tồn tại. Đó là quan điểm tâm linh của thời kỳ đó.
Điều này khiến dân Do Thái giáo trở thành ‘lập dị’ đối với thế giới ngoại giáo đa thần, đây là nguyên nhân chủ yếu đầu tiên khiến người Israel bị kỳ thị, căm ghét và trở thành mục tiêu tận diệt. Người Israel từ chối việc bị các thế lực cai trị áp đặt các nghi thức hay quan điểm tôn giáo, dẫn đến sự thù địch gia tăng. Họ không chấp nhận việc quỳ lạy các vị vua thời đó, bởi họ chỉ quỳ lạy trước Thiên Chúa, niềm tin tôn giáo của họ thách thức quyền lực của các vị vua cai trị họ trong thời cổ đại.
Sắc lệnh đầu tiên, hợp pháp, được ban hành, cho phép tận diệt tất cả những người Israel, do vua Ba Tư phán ra: “Trong tất cả những đám dân đông đảo của xứ này, trong toàn bộ những quận huyện của vương quốc này, đang có một dân tộc rất khác biệt, không thể đồng hóa được. Những luật lệ của dân tộc đó không giống một thứ luật pháp nào của tất cả các vương quốc dưới ánh mặt trời. Dân tộc này bất tuân cả những sắc lệnh của nhà vua. Để bảo vệ những gì đang có và quyền lợi của đất nước, cần phải tận diệt họ đi.”
Việc đàn áp Do Thái giáo có từ Hy Lạp cổ đại và từ La Mã cổ đại. Khi đó dân Israel bị các vua Chúa, các dân tộc khác tấn công ác liệt, giết chóc khủng khiếp và khiến cho họ phải phân tán và ly tan khắp nơi.
Thuyết người Israel giết Chúa Jesus
Ngoài việc bị căm ghét bởi sự khác biệt tôn giáo độc thần, chủ nghĩa bài Do Thái phổ biến nhất dựa trên giả thuyết rằng người Do Thái giết Chúa Jesus, bắt nguồn từ việc Do Thái giáo từ chối công nhận Chúa Jesus là vị cứu thế.
Do Thái giáo thực sự hình thành khi Thiên Chúa đã truyền ban Mười Điều Răn cho dân Do Thái thông qua Moses. Mười Điều Răn tuyệt đối này là lề luật căn bản cho đời sống Do Thái giáo về sau. Trong Mười Điều Răn của Thiên Chúa, có quy định rằng, chỉ được thờ một Thiên Chúa duy nhất (mà họ gọi là Jehovah), không được thờ động vật, và ngẫu tượng. Cho nên Do Thái giáo không thờ người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là Chúa hay Thánh được.
Đến thế kỷ 1, đức Jesus xuất hiện, sáng lập Kitô giáo như một nhánh phái sinh của Do Thái giáo. Chúa Jesus là người Do Thái. Kinh Torah (5 cuốn sách đầu tiên trong Kinh Thánh Do Thái) được gọi là Kinh Cựu Ước trong Kitô giáo. Còn Tân Ước tập hợp các bài giảng của Jesus sau khi Kitô giáo ra đời và tách khỏi Do Thái giáo.
Trong Tân Ước, Jesus dùng “con người” – từ ông sử dụng để nói về mình và người khác nói về ông. Trước câu hỏi Chúa Jesus là Chúa hay là người, người Kitô trả lời: cả hai. Người Do Thái không thể chấp nhận loại bỏ sự phân biệt tuyệt đối mà họ đã luôn vạch ra giữa Chúa và con người vì đó là cốt lõi của Thần học Do Thái, niềm tin ở trên tất cả các niềm tin khác, phân biệt với người ngoại đạo. Bởi thế sự xung đột giữa hai giáo phái trở nên không thể hòa giải. Kitô giáo hoàn toàn thoát ly khỏi Do Thái giáo.
Jesus bị kết tội có mưu đồ làm vua dân Do Thái, dẫn đến việc ông bị một viên tổng trấn đế quốc La Mã tên là Pontius Pilate kết tội đóng đinh trên cây thập giá.
Người Israel có giết Chúa?
Kinh Thánh nói rõ ràng rằng người La Mã là những người đã thực sự giết Chúa Jesus, mặc dù người Do Thái đã tham gia làm kẻ đồng loã. Câu hỏi đặt ra là tại sao người La Mã không bị thù ghét như người Do Thái? Hơn nữa, chính Chúa Kitô, trước khi bị hành hình, đã nói: “Xin Cha tha thứ cho họ vì họ không biết họ làm gì”. Mặc dù Vatican đã giải phóng người Do Thái khỏi cáo buộc giết Chúa vào năm 1963, điều đó không làm giảm chủ nghĩa bài Do Thái.
Nhưng ngay cả giả thuyết Chúa Kitô chết vì bị vu oan, bị phản, thì những kẻ đã phản Ngài cũng không phải là toàn thể dân tộc Do Thái, không phải là toàn thể những người Israel có mặt lúc đó nữa. Vậy mà, nó lại trở thành cơn cớ cho những tín đồ ngoại giáo đàn áp và muốn tiêu diệt nhóm người này. Liệu có thể nhân danh bảo vệ đức tin để bức hại một dân tộc, giết cả những đứa trẻ mới sinh còn chưa biết gì về mối hận thù của loài người?
Đêm trường Trung Cổ
Hai lần ngôi đền Jerusalem bị phá hủy và cũng là hai lần Israel nằm bên bờ vực thẳm. Lần thứ nhất vào năm 568 TCN bởi sự xâm lăng của Babylon; lần thứ hai vào năm 70 CN ngôi đền Jerusalem bị san bằng, hàng nghìn người Israel bị giết hoặc bị bắt làm nô lệ và bị lưu đày, và trong suốt 2,000 năm tiếp theo, người Israel lang bạt khắp mọi nơi trên trái đất: từ Trung Đông, Âu Châu, Bắc Phi, Trung Hoa… cho đến Hoa Kỳ.
Cuối thời Trung cổ, Kitô hữu bằng quyền lực chính trị sẵn có đã đẩy người Israel xuống địa vị hèn mọn. Người Israel bị giam hãm trong các khu “Ghetto” (trại tập trung) nghèo khó, bị buộc phải mặc quần áo có đánh dấu nhận dạng riêng, bị trục xuất khỏi phường hội nghề nghiệp, và truất quyền tư hữu đất đai, hứng chịu lời lăng mạ đổ xuống từ các bục thuyết giảng như kẻ giết Đức Kitô, bị buộc tôi là thủ phạm đã đầu độc nguồn nước suốt kỳ đại dịch Cái chết đen…, nói chung là thủ phạm của mọi hành vi tội ác mà một trí óc tăm tối có thể gán cho một nhóm dị chủng (theo nhà sử học Norman Solomon).
Mâu thuẫn giữa Kitô giáo với Do Thái giáo và Hồi giáo lên đến đỉnh điểm vào thế kỷ 11 khi Giáo hoàng Innocent II của Kitô giáo khởi đầu các cuộc Thập Tư Chinh vào năm 1096. Giáo hoàng thúc giục các nhà cầm quyền Kitô giáo tấn công người Do Thái giáo và người Hồi giáo ở Âu Châu và thu hồi các vùng đất thánh địa ở Canaan. Nhiều cuộc thảm sát người Do Thái giáo xảy ra.
Các cộng đồng Do Thái giáo ở khắp Âu Châu bị Thập tự quân càn quét dữ dội, họ bị tàn sát ghê gớm tới nỗi tại các nước ở bờ biển Đại Tây Dương không còn một bóng người Do Thái nào nữa. Dân số Do Thái trên thế giới giảm xuống mức thấp nhất vào cuối thế kỷ 15, người Do Thái hoàn toàn bị tẩy chay hoặc chính thức bị trục xuất hầu hết ở các quốc gia Âu Châu.
Qua thế kỷ 18, “Thế kỷ Ánh sáng”, khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của Cách mạng Pháp khiến người ta bớt kỳ thị, người Israel được quyền bầu cử bình đẳng. Từ cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20 là thời kỳ vàng son và yên ổn làm giàu của người Israel, các cộng đồng Israel ở Âu Châu đã có những phát triển rất ngoạn mục. Giai đoạn này người Israel hầu như đã nắm huyết mạch tài chính và ngân hàng của Âu Châu. Nhưng sự thành công của họ, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế tài chính, khiến họ tiếp tục bị ghét bỏ hơn nữa.
Với nhiều người bản xứ, một dân tộc ăn nhờ ở đậu, không có tổ quốc mà lại thành công, chiếm những địa vị cao sang, ảnh hưởng tới nội trị, ngoại giao nước đó thì nhất định là người ta không ưa. Biểu hiện xuất sắc và khối tài sản người Israel nhanh chóng kiếm được khiến họ bị ganh ghét và oán giận. Người ta lại tìm những cơn cớ khác để vùi dập đám người bé mọn này.
Kỳ thị chủng tộc
Kỳ thị tôn giáo là không đủ bởi một số người Do Thái đã cải đạo để tránh bị tiêu diệt. Vậy nên, thế kỷ 18 và 19, chủ nghĩa bài Do Thái mang màu sắc tôn giáo được thay thế bằng chủng tộc.
Hitler và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của Đức Quốc Xã trong khi tự ngộ nhận mình là chủng tộc siêu đẳng Aryan không thể chấp nhận sự tồn tại một dân tộc được Chúa chọn đầy trí tuệ như dân tộc Israel. Nếu nước Đức Quốc Xã là chủng tộc siêu đẳng nhất thì sẽ không thể tồn tại một chủng tộc siêu đẳng nào khác, và kết quả là chiến dịch hủy diệt toàn diện người Israel tại các vùng đất Đức Quốc Xã khởi động. Sự bại trận của Đức sau thế chiến I cũng như những thảm họa lạm phát về kinh tế Đức đều được Hitler đổ lỗi cho người Do Thái, Hitler đặt điều rằng tất cả mọi vấn đề trên thế giới đều có nguồn gốc từ Do Thái và do người Do Thái gây nên. Người Mỹ không tin vào lời nói xảo quyệt này, Tờ Miami Daily News đã đưa ra một thông điệp sắc bén:
“Một thành viên của Đức Quốc Xã mắc bệnh giang mai và họ không cho phép mình điều trị bằng cách sử dụng thuốc Salvarsan vì đó là thuốc do Ehrlich người Israel khám phá ra. Thậm chí họ cũng không cố gắng tìm kiếm cách chữa bệnh vì phương pháp chẩn đoán bệnh giang mai được sử dụng cũng là phát kiến của người Israel… Hay một thành viên của Đức Quốc Xã mắc bệnh tim thì họ cũng không sử dụng lá mao địa hoàng để điều trị. Vì loại lá này do Ludwig Trabo người Israel phát hiện và phát triển để điều trị bệnh tim. Hay người bị mắc bệnh sốt Rickettsia cũng nhất quyết không điều trị, vì họ sẽ phải dùng phương pháp điều trị mà Widall và Weill, người Israel phát kiến ra. Nếu có người mắc bệnh tiểu đường, họ cũng không sử dụng insulin để điều trị, vì đó cũng là kết quả nghiên cứu của Minkowsky là người Israel. Hay khi họ mắc chứng đau đầu, họ cũng tránh xa bột ovarmidon và antipyrin, vì đó cũng là phát kiến của Spiro và Eiloge là người Israel. Những người bài trừ Israel mắc chứng co giật thường phải cố gắng chịu đựng và không điều trị theo phương pháp sử dụng chloral hydrate vì đó cũng là phát kiến của Oscar Leibreach là người Israel…”
Người ta không thể trả lời được nếu người Do Thái là một chủng tộc thấp kém thì tại sao họ lại thành công đến vậy? thời Trung đại, hơn 17% những nhà khoa học hàng đầu là người Do Thái, trong khi dân tộc Do Thái chỉ chiếm 1% dân số loài người. Con cái Do Thái của tầng lớp Do Thái tư sản giàu có và quyền lực nhất có xu hướng giành mọi giải thưởng học thuật danh giá. Khi họ cố gắng hòa nhập vào thế giới, trở thành những nhân tố đóng góp trí tuệ, kỹ năng cho các quốc gia họ cư trú trong thời kỳ lưu vong, thì họ vẫn lại bị ganh ghét bởi sự xuất sắc vượt trội.
Âu Châu trở thành một lò sát sinh kinh khủng
Suốt mười mấy thế kỷ, không ở nơi này thì ở nơi khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị cái cảnh giam cầm trong các ghetto, hoả hình, lò thiêu, phải mang trên áo hình bánh xe hoặc hình ngôi sao vàng (một ngôi sao sáu cánh gọi là ngôi sao David) như tội nhân mang áo dấu, bị trục xuất, hoặc bắt buộc phải từ bỏ tôn giáo, bị trút lên đầu tất cả những tội lỗi mà họ không hề gây ra, nếu chẳng may trong nước có một tai hoạ gì, bất kể là do tự nhiên hoặc do nhân sự, thì người ta đều kết tội bởi người Israel; bị ngược đãi thậm tệ, bị đánh đập, bị treo cổ, dìm nước, thọc tiết, thiêu sống… đâu đâu họ cũng gặp những cảnh địa ngục, chỉ vì họ là Do Thái. Thật là những ngày đầy máu lệ cho đám con cháu Abraham.
Tình cảnh đó bất công đến nỗi một người trong Công giáo đã phải thốt ra câu này: “Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là một người công giáo ngoan đạo thì hết thảy chúng ta đều là những công giáo ngoan đạo”.
Từ các nhà bác học tới các giáo sư đại học, các giám đốc ngân hàng, hễ tổ tiên ba bốn mươi đời là Do Thái, thì cũng đành phải xin tờ hộ chiếu của một nước khác, rồi bỏ hết tài sản lại cho Đức Quốc Xã, để ra đi. Einstein, nhà bác học làm vẻ vang cho cả nhân loại, đã được chính phủ Đức ban cho đủ các ân huệ, dựng một tượng bán thân của ông ở Postdam, tặng ông một dinh thự và một chiếc tàu buồm, gọi là tỏ “lòng quý mến và ngưỡng mộ” của dân tộc mà rồi ít năm sau, người ta đòi lại tất cả những cái đó, ông kinh hãi, không dám trở về quê quán nữa, chạy sang Bỉ. Ở Bỉ cũng không yên, ông lại phải qua Mỹ, nhập tịch Mỹ làm giáo sư trường Đại học Princeton.
Ba năm sau, nghe thấy những tin tức rùng rợn về cuộc tàn sát Do Thái ở Trung Âu và Tây Âu, Stefan Zweig – nhà văn Áo nổi tiếng người Do Thái tự tử sau khi đã để lại cho đời một hồi ký thê thảm nhan đề “Le monde d’hier” (Thế giới hôm qua) trong đó có đoạn chua chát:
“Những cái thảm thương nhất trong bi kịch Do Thái ở thế kỷ XX này là những kẻ bị tai hoạ không thể hiểu nổi ý nghĩa của bi kịch đó; tại sao người ta lại giết họ khi họ không có lỗi gì cả? Thời trung cổ, tổ tiên họ phải đau khổ, nhưng ít nhất cũng hiểu mình đau khổ vì cái gì: vì tín ngưỡng, vì luật trong đạo… Và khi người ta liệng họ lên giàn hoả, thì họ ôm Thánh Kinh vào lòng, nhờ nhiệt tâm trong lòng mà chịu được sức nóng của ngọn lửa thiêu họ. Nhưng đã từ lâu rồi họ thành, những người Pháp, Đức, Anh, Nga… thì tại sao người ta lại tàn sát họ, hốt họ như hốt bùn trên đường. Tại sao họ phải chịu hoài số kiếp đó? Mà chỉ có riêng họ phải chịu? Người ta tàn sát họ như vậy là có lý do gì không? Có ý nghĩa gì không? Có mục đích gì không? Tại sao?
Đúng năm Stefan Zweig tự tử ở bên Anh Quốc thì tại tổ quốc ông, bọn Hitler dùng đủ các phương pháp khoa học tối tân để giết cho kỳ hết dân Israel ở Đức và khắp các nước mà chúng chiếm được.
Chính phủ Đức hạ lệnh bắt giam hàng trăm người Do Thái, nhân một thi hài đứa trẻ 14 tuổi được tìm thấy gần nơi cư ngụ của một nhóm Israel. Thi hài này bị cắt từng khúc và mất hết máu. Chính quyền Đức loan báo rằng: cuộc điều tra cho thấy người Israel bắt đầu uống máu người Đức… Lịch sử sau đó có truy cứu ra vụ này và cho biết chính các cơ quan cảnh sát của chính phủ Bismarck và Liên minh chống Do Thái đã hạ sát em nhỏ và thực hiện công việc ném đá giấu tay đó. Những vụ việc như vậy trở thành phổ biến khiến người Israel luôn sống trong sự tuyên truyền lừa dối của nhà cầm quyền nhằm kích động dân chúng căm ghét Do Thái giáo.
Và đỉnh điểm của tham vọng điên cuồng tận diệt chủng tộc người ‘thấp kém’ này là Đức Quốc Xã thảm sát dân Israel bằng một giải pháp rẻ và nhanh, vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại. Dẫu đến Nero tái sinh cũng không thể tưởng tượng nổi những phương pháp mà Đức Quốc Xã đã dùng trong thế chiến vừa rồi để giết sáu triệu người Do Thái ở Âu Châu. Nếu Đức Quốc Xã nắm thế thượng phong trong cả cuộc chiến tranh đó, chắc hẳn chúng đã hoàn thành mưu đồ diệt chủng hoàn toàn người Israel.
Quê hương của Kant, Goethe, của Bach, Beethoven dưới thời Hitler biến thành một lò sát sinh mênh mông, kinh khủng mà có lẽ cảnh vạc dầu ở địa ngục không cũng không sánh nổi. Một dân tộc chịu non hai ngàn năm giáo hoá của đạo Kitô, rồi mấy trăm năm giáo hoá của biết bao triết gia, thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ thiên tài vào bậc nhất thế giới, mà chỉ sau có mấy năm tuyên truyền của Hitler, hoá ra tàn bạo đến không thể tưởng tượng nổi.
Hành động của Hitler, nhân loại chưa có danh từ gì để gọi, và năm 1946, trong vụ án Nuremberg để xử Đức Quốc Xã chịu trách nhiệm về thế chiến, người ta đã phải đặt ra một danh từ mới, danh từ “Genocide” (diệt chủng) vì Genocide gồm tiếng Hy Lạp “Genos” nghĩa là chủng tộc và tiếng La-tinh “Caedere” nghĩa là giết. Diệt chủng là tiêu diệt một giống người nhiều một cách suy tính, có phương pháp, cho nên ghê gớm rùng rợn vô cùng, bởi nó đòi hỏi một mức độ tàn bạo máu lạnh và sự tham gia của rất nhiều quốc gia, dân chúng thuộc mọi tầng lớp.
Những người sống sót vĩ đại
Một dân tộc có hành trình viễn du dài nhất thế giới, nhưng không phải để khám phá những kỳ quan, mà là để trải nghiệm sự tàn ác của đồng loại. Lịch sử bi thảm của họ có thể nói là gộp tất cả nỗi đau đớn khổ nhục, bi thương của tất cả các dân tộc từng phải trải qua. Phải chăng Thiên Chúa lựa chọn người Israel là muốn họ nói lên sự thôi thúc của cái ác tiềm ẩn trong bản tính con người và kêu gọi con người nhìn lại?
Lịch sử bi thảm của họ với chồng chất những nỗi đau đớn khủng khiếp không thể tưởng tượng nổi. Sự tồn tại của họ có nhiều ý nghĩa, nhưng trước hết, họ là nhân chứng cho sự tàn ác, nhẫn tâm không có giới hạn của con người.
Lịch sử bi thảm của người Israel có thể nói là gộp tất cả nỗi đau đớn khổ nhục, bi thương của tất cả các dân tộc từng phải trải qua. Nhưng đức tin vào Thiên Chúa của họ vẫn luôn kiên định và bền bỉ…
Nếu như ta không thể tưởng tượng nổi những đọa đày, bức hại thảm khốc mà người Israel phải chịu thì những kẻ từng bức hại họ còn kinh ngạc hơn, bởi sau tất cả những vùi dập dã man thê thảm đó, không thể nào khiến họ khuất phục. Tất cả những thế lực từng tàn sát Do Thái giáo có lẽ đã không hiểu được tại sao người Israel không bao giờ chấp nhận từ bỏ tín ngưỡng của mình, ngay cả khi cái giá phải trả cho sự bướng bỉnh đó là gần một nửa số dân của họ bị sát hại. Đức tin vào Thiên Chúa của họ vẫn âm thầm, bền bỉ, bất tuyệt mà ngay cả lò thiêu khủng khiếp nhất của Hitler cũng không thiêu cháy nổi.
Trong khi những nền văn minh cổ đại láng giềng xung quanh Israel như Ai Cập cổ đại, dân tộc đã xây dựng nên những kim tự tháp vĩ đại. Người Hy Lạp khởi đầu cho nền văn minh dân chủ đa sản sinh cho thế giới những Platon, Aristotle danh tiếng, người La Mã với thời kỳ cổ đại hoàng kim tất cả nay đã không còn. Những quốc gia văn minh cổ đại đó trong quá khứ đã từng xâm lăng giày xéo trên mảnh đất thiêng liêng của người Do Thái cho đến nay tất cả chỉ còn lại là những dấu tích đổ nát và mãi mãi chỉ còn trong ký ức. Riêng dân tộc Israel trải qua biết bao nhiêu chìm nổi, vẫn còn cho đến ngày nay, hiên ngang và kiêu hãnh.
(Còn tiếp)
Đan Thư
Xem thêm: