Giai đoạn tiếp theo của cuộc khủng hoảng ngân hàng
Trong vụ phá sản gần đây nhất trong lĩnh vực ngân hàng, đầu tuần lễ từ ngày 01 đến 07/05, ngân hàng First Republic Bank đã sụp đổ, bị đặt dưới quyền tiếp nhận của Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC), và hầu hết tài sản của ngân hàng này đã được bán cho JPMorgan Chase. Với khối tài sản trị giá khoảng 232 tỷ USD, vụ phá sản này đánh dấu vụ phá sản ngân hàng lớn thứ hai của Hoa Kỳ từ trước đến nay, chỉ đứng sau Washington Mutual trong những ngày đầu của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Đáng chú ý là, ba trong số bốn vụ sụp đổ ngân hàng lớn nhất mọi thời đại của Hoa Kỳ — các vụ phá sản ngân hàng First Republic, Silicon Valley Bank, và Signature Bank — đã xảy ra trong vòng 60 ngày qua.
Những sự kiện bất thường này không chỉ gây kinh ngạc mà còn đáng báo động theo đúng nghĩa trên mặt chữ của từ này rằng chúng nên gióng lên hồi chuông cảnh báo cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo chính phủ và doanh nghiệp, cùng với nhiều hãng truyền thông lớn, đang rất nỗ lực để nói rằng hệ thống ngân hàng ổn định và không có gì phải lo lắng nhiều.
Sau sự sụp đổ của Silicon Valley Bank hồi tháng Ba, Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ Janet Yellen đã tìm cách bảo đảm với Quốc hội và công chúng rằng mọi thứ đều ổn. Bà lưu ý rằng “hệ thống ngân hàng của chúng ta đang lành mạnh”, trong khi ở hậu trường thì bà đang làm việc với JPMorgan và 10 ngân hàng khác để tổ chức giải cứu ngân hàng First Republic thông qua việc bơm vào 30 tỷ USD tiền gửi bằng tiền mặt. Nỗ lực này đã kéo dài được thêm thời gian, nhưng cuối cùng đã không đạt mục tiêu ổn định được First Republic, nơi đã mất 104.5 tỷ USD tiền gửi trong quý đầu tiên, mà chỉ một tháng sau thì các nhà đầu tư của ngân hàng này và công chúng nói chung mới biết được một cách muộn màng.
hôm thứ Hai (01/05), ông Jamie Dimon, giám đốc điều hành kỳ cựu của JPMorgan, đã khẳng định quan điểm của ông rằng hệ thống ngân hàng “rất ổn định”, rằng đây không giống như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và rằng chúng ta sắp kết thúc cuộc khủng hoảng. Sau đó, trong cùng ngày, Tổng thống Joe Biden nói rằng các hành động để giải quyết ngân hàng First Republic “sẽ bảo đảm rằng hệ thống ngân hàng được an toàn và lành mạnh.”
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell cho biết hôm thứ Tư (03/05) rằng “hệ thống ngân hàng của Hoa Kỳ hoạt động tốt và linh hoạt” và rằng các điều kiện “đã được cải thiện trên diện rộng kể từ hồi tháng Ba.”
Tuy nhiên, không ai trên thị trường tin vào những lời này. Chỉ số Ngân hàng NASDAQ đã giảm hơn 35% trong ba tháng qua. Trong vòng ba ngày — nghĩa là, kể từ thông báo của ngân hàng First Republic và các bình luận của ông Dimon — chỉ số này đã giảm 8%, với [cổ phiếu của] nhiều ngân hàng khu vực có thể có các vấn đề tương tự như ngân hàng First Republic giảm nhiều hơn đáng kể.
Theo dữ liệu từ Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch, hơn 72 tỷ USD do những người không phải là người Mỹ nắm giữ đầu tư vào các quỹ thị trường tiền tệ đầu tư vào chứng khoán ngân hàng Hoa Kỳ đã bị rút trong tháng Ba.
Theo dữ liệu từ Cục Dự trữ Liên bang, các ngân hàng Hoa Kỳ đã mất hơn 1 ngàn tỷ USD tiền gửi trong năm qua, khi các nhà đầu tư trở nên lo lắng hơn và nhìn thấy các cơ hội có lợi suất cao hơn ở những nơi khác. Những số liệu này mới tính đến giữa tháng 4, và do đó, không bao gồm bất kỳ việc rút tiền gửi hàng loạt nào khác đã xảy ra trong hai tuần qua sau sự sụp đổ của First Republic và việc bán tháo cổ phiếu của các ngân hàng khu vực trên thị trường.
Ngay cả với dữ liệu cách đây vài tuần, thì những gì chúng ta biết là các ngân hàng khu vực đã buộc phải viện đến Ngân hàng Cho vay Mua nhà Liên bang (FHLBanks) để có 1 ngàn tỷ USD thanh khoản (tính đến cuối tháng Ba) cũng như thêm 325 tỷ USD từ các cơ sở tài trợ khẩn cấp của Cục Dự trữ Liên bang. Đây là những con số bất thường và chưa từng có, với quy mô vượt xa những số tiền đã bị rút ra trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Và không giống như các khoản tiền gửi của khách hàng khiến các ngân hàng phải trả lãi suất ít hơn 1%, các khoản cứu trợ thanh khoản này đang khiến các ngân hàng phải trả lãi suất gần 5%. Ở các cấp độ này, nhiều ngân hàng khu vực và cộng đồng sẽ nhanh chóng trở nên thua lỗ, làm tình huống bất ổn này càng trở nên đi xuống hơn nữa.
Toàn bộ những xu hướng này đã làm cho các cơ quan xếp hạng tín dụng lo lắng. Chẳng hạn, Moody’s gần đây đã hạ triển vọng vĩ mô đối với ngành ngân hàng Hoa Kỳ, với lý do lo ngại về lãi suất cao hơn, rủi ro tài trợ vốn gia tăng, chất lượng tín dụng suy giảm, lợi nhuận và vốn giảm, và các rủi ro mới nổi liên quan đến lĩnh vực địa ốc thương mại. Đồng thời, tổ chức này đã hạ cấp 11 ngân hàng trên khắp đất nước, bao gồm cả USBank, ngân hàng lớn thứ năm ở Hoa Kỳ, với hơn 500 tỷ USD tiền gửi. Ngoài USBank, nhiều ngân hàng bị hạ cấp có rủi ro đáng kể với địa ốc thương mại.
Vấn đề với địa ốc thương mại dễ hiểu thôi. Những người lao động vẫn chưa quay trở lại văn phòng của họ sau thời gian phong tỏa, và tỷ lệ trống ở các trung tâm đô thị ven biển như Manhattan, San Francisco, và Los Angeles đang ở mức cao nhất mọi thời đại. Các ngân hàng khu vực và cộng đồng chiếm phần lớn các khoản cho vay địa ốc thương mại và vẫn nắm giữ hầu hết các khoản cho vay như vậy, chiếm tỷ lệ quá cao trong bảng cân đối kế toán của nhiều nhà băng trong số ngân hàng này. Hàng ngàn tỷ USD của các khoản vay này sẽ đến hạn trả trong vài năm tới, và nhiều ngân hàng không có đủ vốn để chịu nổi những khoản lỗ đáng kể khi các khoản cho vay này không có khả năng được hoàn trả.
Nhật Thăng biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times