Đức hạnh và Bổn phận, lối sống của người Mỹ
Trong tuyên ngôn độc lập khỏi Đế Quốc Anh, người Mỹ đã khẳng định một cách mạnh mẽ các quyền bất khả xâm phạm của họ. Tương đối ít nổi bật nhưng rất đáng để chú ý, họ đã liệt kê ra 10 trách nhiệm đạo đức đi kèm với các quyền lợi đó.
Khi tuyên bố ly khai chính trị của mình, họ đã bắt đầu với việc nhận ra một trách nhiệm tuân thủ “sự tôn trọng nghiêm túc đối với các quan điểm khác nhau của nhân loại” bằng cách nêu rõ nguyên nhân cho các quyết định của họ.
1). “Nghiêm túc” có nghĩa là phù hợp, thích đáng; các quan điểm của nhân loại được tôn trọng một cách thích đáng bởi vì con người sở hữu các năng lực xã hội, để thấu hiểu nhau và để đưa ra các lý do cho các hành vi của họ. Bất kỳ hành động công khai quan trọng nào đều đòi hỏi trách nhiệm phải giải thích, chứng minh cho hành động đó trước rào cản lý luận của con người.
Để có thể biện minh cho chính mình, ngược lại, đòi hỏi người Mỹ phải định rõ tiêu chuẩn công lý của chính họ. Tiêu chuẩn đó chính là quyền lợi tự nhiên bất khả xâm phạm, bao hàm cả cuộc sống, tự do, và sự mưu cầu hạnh phúc.
2). Công bằng là một trong số bốn đức tính cổ điển trọng yếu, được định nghĩa và trau chuốt bởi Plato, Cicero và các nhà triết học nổi tiếng khác cho đến những vị vĩ nhân đã ký tên trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Trong một xã hội dân sự, hành vi công bằng bao gồm các hành động bảo vệ các quyền tự nhiên; để khẳng định các quyền lợi, để tách biệt một người khỏi những ai muốn can thiệp đến họ, đòi hỏi một cách hợp lý việc tôn trọng các quyền đó ở tất cả những người khác, bởi vì “tất cả con người được tạo ra bình đẳng,” tất cả đều có quyền được hưởng các quyền tự nhiên của họ mà không bị bạo chúa làm xáo trộn.
Các chính phủ bảo đảm các quyền đó được thành lập dưới sự đồng thuận của các cơ quan quản lý. Điều này có nghĩa là sự đồng thuận đó không chỉ đơn giản là đồng tình hoặc là sẵn lòng. Nó chỉ có thể có nghĩa là sự thỏa thuận hợp lý.
3). Sự đồng thuận hợp lý đối với các quyền lợi tự nhiên bao hàm một mức độ khiêm tốn của một đức tính cổ điển khác, là sự khôn ngoan. Trong trường hợp này, đó là điều mà Aristotle gọi là trí tuệ “lý thuyết”, sự hiểu biết các nguyên tắc tổng thể hoặc trừu tượng. Người Mỹ nhận ra trách nhiệm của họ là thấu hiểu bản chất của con người là gì – không chỉ là bản chất của người dân Hoa Kỳ, người Anh, người Pháp, mà là cả nhân loại.
4). Aristotle nhận định về loại trí tuệ thứ hai: sự khôn ngoan thực dụng và thận trọng, khả năng đưa ra các giải pháp hợp lý để đảm bảo các quyền được thiết lập về mặt lý thuyết của bản chất con người. “Thận trọng”, Bản Tuyên Ngôn nêu rõ, “ra lệnh sẽ không thay đổi các chính phủ được thành lập lâu đời chỉ vì một số nguyên nhân nhỏ bé và nhất thời.” Các chính phủ lâu đời đã tồn tại được rất lâu là vì họ có một số các nguyên nhân tốt đẹp; họ đã đứng vững qua các bài kiểm tra kinh nghiệm của thực tế. Phần lớn Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được đưa ra để chỉ rõ nguyên nhân tại sao những người ký tên đã nợ nhân loại một bảng kê danh mục không hề nhẹ nhàng và nhất thời. Họ là những con người sâu sắc và nhìn xa trông rộng, và nếu không lường trước được kết quả có thể xảy ra, họ sẽ gần như là thất bại trọng việc thực hiện đức tính thận trọng.
5). Có liên quan mật thiết với thận trọng là đức tính cổ điển thứ ba, sự tiết chế. Cũng giống như hầu hết nhân loại, Người Mỹ đã thể hiện sự kiên nhẫn trong việc chịu đựng những áp bức “có thể chịu đựng được” khi còn là thần dân của Đế Quốc Anh. Chỉ khi “một chuyến tàu dài của sự hành hạ” tiết lộ ý định của đế quốc nhằm “kiềm hãm họ bên dưới một chế độ chuyên chế” đã đưa đến cho họ không chỉ quyền lợi mà còn là sứ mệnh “tống khứ” chế độ đó và đồng thời xây dựng một trật tự mới sẽ bảo đảm các quyền lợi tự nhiên của họ. Cả thận trọng và tiết chế đều chứng minh cho quyền cách mạng và, đồng thời, là nghĩa vụ để thành lập một chế độ sẽ làm tốt hơn trong thực tế.
6). Đức tính cổ điển thứ tư là kiên cường. Nếu không có nó, chỉ với sự thông minh, công bằng và tiết chế thì sẽ khiến bạn cao ngạo và khô khan. Như một người quản lý đội bóng chày đã từng nói về đối thủ, “Người giỏi thường về đích sau cùng.” Dựa theo đó, người Mỹ đã tuyên bố ý định bảo vệ những quyền lợi của họ cùng với một “bản lĩnh của nam nhân”. Cần lưu ý rằng bản lĩnh nam nhân trong tâm trí họ không có phân biệt “giới tính.” Phu nhân Abigail Adams là không hề kém “bản lĩnh” so với chồng là John Adam – vị tổng thống thứ hai của đất nước Hoa Kỳ. Ông cũng hiểu rõ về điều này và cũng nhìn nhận như vậy. Nhìn về cuộc Chiến Tranh Cách Mạng Hoa Kỳ, ông đã viết rằng đó là thời kỳ thử thách đối với linh hồn của cả những người phụ nữ và đàn ông, và những người phụ nữ Mỹ đã thể hiện không hề kém cạnh so với chồng và con của họ. Nhiều thập kỷ sau đó, ông Tocqueville hào hiệp [Cựu bộ trưởng bộ ngoại giao nước Pháp] đã đi xa hơn khi nói rằng đất nước Hoa Kỳ đã thành công trong việc giành được chính quyền là nhờ chủ yếu vào “sự ưu tú của những người phụ nữ ở đất nước họ” so với những người phụ nữ thường ở trong các phòng khiêu vũ và quán rượu nơi Âu châu, nơi mà đức tính kiên cường đã gần như lỗi thời.
7). Những người ký tên cũng đề cao sự lễ độ để chống lại chủ nghĩa man rợ, theo ý nghĩa của họ thì không phải là nói về thời nguyên thủy. Điều mà họ nói tới là nham hiểm và thủ đoạn, những mưu đồ để thống trị bằng bạo lực và dối trá, hoặc, nói theo cách của họ thì là bội bạc và tàn nhẫn. Theo tiêu chuẩn này, những chính sách của vương quyền nước Anh đối với các thuộc địa Mỹ là rất man rợ, những lễ nghi và sự phô trương “văn minh” bề ngoài chỉ là ra vẻ mà thôi. Nhà triết học Aristotle hiểu rõ bản chất nhân loại không chỉ là lý trí mà còn có chính trị hoặc dân sự. Đối với “chính trị”, ông có ý nói về người cai trị và người được cai trị, như là những người chồng tốt và người vợ cùng nhau làm việc nhà gọn gàng ngăn nắp, và như là những công dân làm tròn bổn phận của họ trong xã hội. Quy tắc chính trị và dân sự trái ngược với quy tắc làm cha mẹ – quản lý con cái vì “lợi ích của chúng”. Bổn phận công dân tương đương ở đây sẽ là một vương quyền, một người đàn ông hoặc một người phụ nữ cai trị vì lợi ích của các đối tượng, thường được mô tả như các “con dân” của vua chúa. Quy tắc chính trị và dân sự cũng trái ngược với quy tắc giữa nô lệ và chủ nhân, cái được thành lập, theo như nhận định của ông Aristotle, là vì lợi ích của chủ nhân, hơn là của các nô lệ. Tác dụng của việc cư xử văn minh một cách tự nhiên sẽ đối đãi với con người công bằng như những công dân bình đẳng trong một chế độ được định ra để mọi người dân đều có sự hiện diện trong chính phủ – chính phủ của sự đồng thuận. Sự văn minh làm sống động chế độ cộng hòa, cái mà sẽ thay thế cho nền chính trị chuyên chế của nước Anh.
8). Người Mỹ cũng tôn trọng một đức tính ít cổ điển hơn Kinh Thánh – có tên là khiêm tốn. Họ đã thỉnh cầu vương quyền nước Anh đối với các “điều khoản thấp kém”. Kinh Thánh dạy rằng khiêm tốn là một đức hạnh bởi vì, Đức Chúa Trời đã tạo ra tất cả loài người đều bình đẳng trong nhân tính, họ bình đẳng trước Chúa và bên dưới Chúa. Trong tiếng Do Thái, từ ngữ chỉ sự khiêm tốn, là Anav, xuất hiện thường xuyên gắn liền với vĩ nhân vĩ đại nhất trong tất cả những nhà sáng lập ra người Do Thái, là Moses, một nhà lập pháp vĩ đại. Sự khiêm tốn của Moses cho phép ông đưa Mười Điều Răn như một luật lệ không chỉ của riêng ông, cũng không phải là sản phẩm của trí tuệ của ông, mà là luật lệ của Chúa. Khi mô tả sự độc lập của họ như được thiết lập bởi các quy luật của tự nhiên và của Thượng Đế, những vĩ nhân đã ký tên trong Bản Tuyên Ngôn cũng thể hiện sự khiêm tốn tương tự. Họ không hề kiêu hãnh phô trương trước nhân loại như là những người Mỹ thượng hạng. Họ tuyên bố dự định của họ là yêu cầu quyền lợi dựa trên nền tảng của những quy luật trong tự nhiên được Chúa tạo ra. Họ không phải là những nhà sáng tạo thần thánh mà là những người nhận quà tặng của Thượng Đế ban cho nhân loại.
Trong khi thỉnh cầu vương quyền về các điều khoản thấp kém, họ cũng kêu gọi “tinh thần cao thượng” của những “đồng bào nước Anh,” những công dân của Vương Quốc Anh.
9). Tinh thần cao thượng – theo nghĩa đen mà nói, là sự vĩ đại của tâm hồn – tôn vinh và biểu trưng của các đức tính cổ điển. Aristotle mô tả một con người cao thượng là một người có tâm hồn đủ lớn để chịu đựng sự khắc nghiệt của hiện thực chính trị mà không hề phẫn nộ, không có các hành động trả đũa nhỏ nhen được xúi giục bởi một tâm hồn nhỏ bé và yếu ớt. Người Mỹ hiểu rõ rằng các hành động của họ sẽ làm người Anh ngạc nhiên. Đế chế hùng mạnh nước Anh, nguồn gốc của niềm tự hào dân tộc, sẽ bị loại trừ. Từ bỏ việc thể hiện sự khiêm tốn trước nhà vua – khiêm tốn không phải là hèn nhát – Hoa Kỳ chỉ yêu cầu công dân của họ không gì khác ngoài sự vĩ đại của tâm hồn. Họ cũng có thể đòi hỏi không ít từ chính họ, như vậy, họ giữ một cách đối xử phù hợp là xem người Anh là “kẻ thù trong chiến tranh” và là “bằng hữu trong hòa bình”. Họ nhìn thấy rằng cuộc chiến vì độc lập sẽ khơi gợi những cảm xúc giận dữ trong trái tim để chống lại những con người bình thường kia, thậm chí là hiện tại họ cảm nhận được những tình cảm chống lại Vua George và nghị viện nước Anh. Họ thề rằng sẽ chào đón những cựu kẻ thù trong chiến trận bằng tinh thần cao thượng, một khi hòa bình đã được thiết lập.
Chưa có trường hợp nào mà khiêm nhường trong Kinh Thánh và đức tính cao thượng cổ điển dễ dàng kết hợp lại với nhau. Những vĩ nhân đã ký tên trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã làm được điều này. Họ có thể làm được như vậy là bởi vì họ thấu hiểu rằng khiêm nhường là một đức tính hỗ trợ cho sự tôn trọng xứng đáng – trong xã hội dân sự, đối với một vị vua trong chừng mực tuân thủ các quy luật của Tự Nhiên và Thượng Đế; trong xã hội dân sự và bản chất tự nhiên, đối với Chúa và luật lệ của Ngài, được các dân tộc và quốc vương, thường dân và quý tộc tuân theo.
10). Cuối cùng, một lời cam kết khác nữa của người Mỹ là “danh dự thiêng liêng của chúng tôi”. Nếu người Mỹ nợ một sự tôn trọng nghiêm túc đối với tất cả quan điểm của nhân loại, thì họ đang mang một món nợ danh dự với mọi người, đặc biệt là lòng trung kiên trong một hành động vĩ đại được sẻ chia, chính là sự thành lập chính phủ tự chủ ở quốc gia của họ. Họ sẽ không phản bội người khác. Họ sẽ tôn trọng quan điểm của người khác, tuy nhiên trong nghĩa vụ này, mỗi người đều xứng đáng nhận được đồng tình tốt đẹp từ những người đồng hương.
“Lần đầu tiên trong chiến tranh, lần đầu tiên trong hòa bình, lần đầu tiên trong trái tim của mỗi người bạn đồng hương của ông.” George Washington đã phục vụ như một người dân Hoa Kỳ mẫu mực, là tấm gương cho tất cả những người đồng hương của ông. Đầu tiên, trong chiến tranh, ông đã chứng tỏ sự dũng mãnh trên chiến trường, và lòng dũng cảm trong nghĩa vụ công dân. Sau chiến tranh, ông đối mặt với một cuộc đảo chính quân sự sắp diễn ra. Lần đầu tiên trong hòa bình, ông đã thể hiện một sự tôn trọng tử tế của mình đối với nhân loại bằng Farewell Address [Bài diễn văn chia tay], ngăn chặn các liên minh quân sự ở Âu châu (nung nấu cho một cuộc chiến) và dẫn dắt những người đồng hương của ông đến với một bản hiến pháp được thiết kế nhằm bảo đảm công lý cho tất cả các công dân Hoa Kỳ. Ông đã chứng minh cho họ thấy rằng ông sở hữu trí tuệ để thiết lập một chính phủ bằng sự đồng thuận. Và ông đã giành được vị trí đầu tiên trong trái tim của những người đồng hương bằng sự lễ độ không khoa trương của mình, sự khiêm nhường của ông trước bất kỳ lời đề nghị oán trách nào về việc ông sẽ được phong làm vua (Vua George không bao giờ nghĩ rằng ông có thể kháng cự lại sự cám dỗ đó), và có lẽ trên tất cả là sự vĩ đại của tâm hồn và cảm giác danh dự của ông – những đức tính “quý tộc” mà ông đã khiêm nhường đặt vào để phục vụ nền cộng hòa mà người dân Hoa Kỳ đã chiến đấu và chiến thắng được.
Trong tất cả những điều này, vị Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên George Washington đã trở thành một hiện thân sống động của những nguyên tắc trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, họ là những người thực hành trước nhất, và là điển hình cho những người dân Hoa Kỳ về những đức tính được quý trọng. Trong suốt cả quá trình thử thách linh hồn của việc thay đổi chế độ cách mạng và xây dựng chế độ hòa bình, Washington và những người dân Mỹ của ông không bao giờ xem những đức tính là bản sắc của riêng Hoa Kỳ, mà đúng hơn là di sản được thừa kế của tất cả nhân loại, tuân theo quy luật của Tự Nhiên và Đấng tạo hoá.
Quan điểm được trình bày trong bài viết là ý kiến của tác giả và không nhất định là phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Will Morrisey là một giáo sư danh dự về chính trị tại trường Cao Đẳng Hillsdale và là biên tập viên của Will Morrisey Reviews, một ấn bản đánh giá sách trực tuyến. Ông là tác giả của quyển sách “Self-Government, The American Theme: Presidents of the Founding and Civil War – Chính phủ tự quản, Chủ đề Hoa Kỳ: Những vị tổng thống lập quốc và cuộc Nội Chiến” xuất bản năm 2003.
Chú thích của dịch giả:
*Plato nhà triết học người Athen trong thời kỳ cổ điển ở Hy Lạp cổ đại, người sáng lập trường phái tư tưởng Platon, và Học viện, cơ sở giáo dục đại học đầu tiên ở thế giới phương Tây.
*Cicero Marcus Tullius Cicero là một triết gia và nhà hùng biện, chính khách, nhà lý luận chính trị La Mã. Với thành tựu của mình, ông được xem là một trong những nhà hùng biện vĩ đại nhất La Mã, sở hữu nhiều kỹ xảo đa dạng và khả năng làm chủ ngôn ngữ Latinh đến độ phi thường.
*Aristoteles là một nhà triết học và bác học thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Platon và là thầy của Alexandros Đại Đế