Chuyên gia: Các chương trình giảm tốc độ gia tăng dân số dẫn đến hậu quả gì
Một số người trong giới tinh hoa và Liên Hiệp Quốc tin rằng thế giới đang có quá nhiều dân số, và do đó cần phải giảm tốc độ gia tăng dân số. Tuy nhiên, ông Steven Mosher, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Dân số cho biết các chương trình kiểm soát dân số ở nhiều nước thường sử dụng các phương pháp cưỡng chế.
Theo quan điểm của các tỷ phú, chẳng hạn như ông Bill Gates, ngoại trừ ông Elon Musk, thế giới đang có quá nhiều dân số; đáng chú ý là họ tin rằng đang có quá nhiều người nghèo, ông Mosher nói trong chương trình “Crossroads” của EpochTV.
Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, hiện tượng suy giảm dân số dần xuất hiện ở các nước công nghiệp phát triển ở Âu Châu, Viễn Đông, Bắc Mỹ, Úc, và New Zealand, có nghĩa là tỷ lệ sinh của dân số thấp hơn mức thay thế 2.1 con/phụ nữ, ông Mosher cho hay.
Một dân số trung bình cần 2.1 trẻ em trên một phụ nữ để tự thay thế từ thế hệ này sang thế hệ khác.
“Trong 25 năm qua, tình trạng suy giảm dân số, tỷ lệ sinh dưới mức sinh thay thế, đã lan rộng khắp nơi trên thế giới. Hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay đều có quá ít trẻ sơ sinh để tự thay thế dân số, ngoại trừ một số quốc gia ở Phi Châu.”
Tuy nhiên, Phi Châu đang phải đối mặt với vấn đề tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em rất cao, vì vậy các cặp vợ chồng Phi Châu đương nhiên muốn có ba đến năm con để hai hoặc ba trong số chúng sẽ lớn đến tuổi trưởng thành, ông Mosher cho biết.
Tại Hoa Kỳ, trước khi vụ Roe kiện Wade (Roe v. Wade) được thông qua vào năm 1973, có khoảng 4 triệu ca mang thai mỗi năm và hầu hết đều là những ca sinh nở còn sống, ông Mosher cho biết. Sau vụ Roe kiện Wade, vẫn có 4 triệu ca mang thai nhưng một phần ba trong số đó đã kết thúc bằng cách phá thai, ông nói thêm.
Vào thời điểm đó, tỷ lệ sinh ở Hoa Kỳ đã giảm xuống dưới mức sinh thay thế hàng năm với một ngoại lệ khi họ tuyên bố mức 2.1 đối với tất cả các nhóm chủng tộc, ông Mosher cho biết. Tuy nhiên, tỷ lệ đó lại giảm mạnh sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát, ông nói.
Ông Mosher hy vọng rằng sau khi lật ngược vụ Roe kiện Wade sự sống sẽ được tôn trọng trở lại ở khoảng một nửa số tiểu bang và tỷ lệ sinh sẽ bắt đầu quay trở lại gần với tỷ lệ thay thế. Ông nói thêm, trẻ em là tương lai duy nhất mà gia đình, cộng đồng, và quốc gia có được. “Nếu quý vị có quá ít con, thì theo thời gian quý vị đang trên con đường về căn bản sẽ dần dần không tồn tại nữa.”
Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc
Kể từ năm 1969, khi Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc được thành lập, viện trợ kinh tế ngoại quốc mà các nước phát triển giàu có dành cho các nước nghèo đã đi kèm với các ràng buộc — cụ thể là các nước nhận viện trợ phải có chương trình kiểm soát gia tăng dân số, thường được gọi là ổn định dân số, ông Mosher nói.
“Các nước nghèo, muốn nhận viện trợ ngoại quốc để giúp họ phát triển kinh tế, đã đồng hành cùng chương trình này.”
Ví dụ, chính phủ Kenya, vì áp lực của ngoại quốc, đã thực hiện một chương trình với mục tiêu giảm tỷ lệ sinh xuống còn 2.5 trẻ em bằng các biện pháp như hợp pháp hóa việc phá thai và triệt sản cưỡng chế đối với những phụ nữ đã sinh hai hoặc ba con, ông Mosher cho hay. Ông cũng nói thêm, chương trình này bao gồm một lượng lớn các biện pháp tránh thai, thường là thuốc phá thai, làm đảo lộn tâm lý yêu cuộc sống, gia đình của người dân Kenya.
Ông Mosher cho biết kể từ khi bắt đầu các chương trình kiểm soát dân số cách đây 50 năm, tỷ lệ sinh ở các nước thế giới thứ ba đã suy giảm đáng kể. Tuy nhiên, các cơ quan quảng bá các chương trình như vậy đang có hàng tỷ dollar và hàng chục ngàn nhân viên, và họ sẽ không “dễ từ bỏ việc này đâu,” ông nói thêm.
Ngay cả khi tỷ lệ sinh giảm xuống mức 1.3 hoặc 1.4 trẻ em, nghĩa là dân số hoàn toàn bị suy giảm, thì họ vẫn sẽ tiếp tục các chương trình của mình bởi vì các nhà kiểm soát dân số tin rằng không còn chỗ cho 7 tỷ người trên trái đất, ông Mosher cho biết. Trong các bài viết của họ, họ còn nói rằng dân số thích hợp của thế giới là khoảng 1 tỷ người, “điều này đặt ra câu hỏi về việc họ sẽ làm gì với 6 tỷ người khác trong chúng ta theo thời gian,” ông lưu ý.
Năm 1974, Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã đưa ra một báo cáo, được gọi là “Báo cáo Kissinger” (pdf), phân tích những tác động của sự gia tăng dân số thế giới.
Trong số những hậu quả của sự gia tăng dân số nhanh chóng ở các nước thuộc thế giới thứ ba, Báo cáo Kissinger đã liệt kê khả năng cực đoan hóa của những quốc gia này do có tỷ lệ lớn thanh niên trong dân số của họ và lượng người nhập cư quốc tế.
Báo cáo viết: “Những người trẻ, chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều ở nhiều nước LDC [các nước kém phát triển] có khả năng biến động, không ổn định, dễ bị cực đoan, xa lánh, và bạo lực hơn so với nhóm dân số lớn tuổi. Những người trẻ này có thể dễ dàng bị thuyết phục tấn công các tổ chức pháp lý của chính phủ hoặc tài sản thực của “cơ sở,” “những kẻ theo chủ nghĩa đế quốc,” và “các tập đoàn đa quốc gia.””
Báo cáo của ông Kissinger nêu rõ: “Việc di cư sang các nước láng giềng (đặc biệt là những nước giàu có hơn hoặc có người định cư thưa thớt hơn), dù hợp pháp hay bất hợp pháp, đều có thể gây ra những phản ứng hoặc bạo lực chính trị tiêu cực.”
Ông Henry Kissinger là một cựu Ngoại trưởng trong chính phủ của ông Nixon và ông Ford và là một người được ủy thác của Ủy ban Ba bên.
Lạm dụng chương trình kiểm soát dân số ở Peru
Ông Steven Mosher nói rằng Viện nghiên cứu mà ông đang lãnh đạo đã ghi lại các chương trình kiểm soát dân số cưỡng chế ở khoảng 40 quốc gia.
Ví dụ, ở Indonesia, quân đội săn lùng những phụ nữ đã có hai con và đưa họ đi triệt sản bắt buộc, ông Mosher nói. “Việt Nam đã thực hiện chính sách hai con, được thực thi bằng cách triệt sản cưỡng chế và cưỡng bức phá thai [thế nhưng] nhiều quốc gia khác đã không đi xa như vậy.”
Ông Mosher cho biết một chương trình triệt sản cưỡng chế được áp dụng ở Peru vào những năm 1990 gắn liền với việc nhận viện trợ ngoại quốc từ Hoa Kỳ. Ông nói thêm, kết quả của chương trình này là 300,000 phụ nữ đã bị triệt sản.
Những phụ nữ Peru không triệt sản và con của những người phụ nữ này đều đã bị từ chối tiếp cận với chương trình chăm sóc y tế và trợ cấp lương thực do chính phủ cung cấp, ông Mosher cho hay.
“Các bác sĩ và y tá ở Peru đều được cấp hạn ngạch triệt sản phụ nữ hàng tháng, vì sợ mất việc trừ khi họ tuân thủ.”
Ông cho biết, việc cưỡng chế triệt sản nhắm vào chủ yếu là dân bản địa nghèo, chứ không phải là hậu duệ của những thực dân Tây Ban Nha ở Peru.
“Điều này luôn luôn là đa số triệt tiêu thiểu số, dân tộc thiểu số, thiểu số tôn giáo.” Ở Trung Quốc, phụ nữ dân tộc thiểu số Tây Tạng hoặc Duy Ngô Nhĩ đều phải bị triệt sản, chứ không phải dân tộc Hán, vốn là dân tộc thống trị ở Trung Quốc, ông Mosher nói.
Chính sách một con của Trung Quốc
Ông Mosher cho biết, Trung Quốc dẫn đầu trong việc giảm tốc độ tăng trưởng dân số nhờ chính sách một con của họ, chương trình này áp dụng nhiều biện pháp phá thai cưỡng bức ngay cả khi thai được 7, 8, hoặc 9 tháng. Chính sách này đã dẫn đến “tình trạng sát hại hàng loạt bé gái trước khi sinh và sau khi sinh,” gây ra tình trạng thiếu phụ nữ trẻ ở Trung Quốc, cũng như lạm dụng nghiêm trọng triệt sản cưỡng bức, chuyên gia này giải thích.
Ông Mosher cho biết, bất chấp những lạm dụng đó, vào năm 1983, Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc đã vinh danh người đứng đầu chương trình kế hoạch hóa gia đình của Trung Quốc với giải thưởng cao nhất cho những thành tựu ổn định dân số. “Họ thực sự coi Trung Quốc như một hình mẫu cho các quốc gia khác trên thế giới.”
Ông Mosher đã từng đến Trung Quốc vào những năm 1980 khi ông còn là một nhà khoa học xã hội tại Đại học Stanford, là một trong nhóm 50 học giả – nhóm các nhà khoa học Mỹ đầu tiên được chọn đến Trung Quốc.
“Xã hội nước này thường khép nép với người ngoại quốc, nhưng điều lạ là trong một khoảng thời gian rất ngắn, đã hoàn toàn cởi mở với tôi.”
Ông Mosher đã ở Trung Quốc khi chính sách một con bắt đầu và theo dõi những phụ nữ bị chính quyền Trung Quốc bắt giữ vì tội mang thai đứa con thứ hai, thứ ba, hoặc thứ tư bất hợp pháp.
Những người phụ nữ đó đã bị đưa đến một trại giam giữ trong nhiều ngày và nhiều tuần, và phải chịu “những buổi tuyên truyền và tẩy não đầy mệt mỏi,” ông Mosher nói.
Tiếp theo, “họ được đưa đến một phòng khám y tế địa phương, bị biến thành một nơi nạo phá thai trong thời gian này, và tất cả họ đều bị tiêm thuốc độc vào tử cung để sát hại đứa con chưa chào đời của mình.”
“Như thể điều đó vẫn chưa đủ đau đớn và khổ sở, sau đó họ đã bị triệt sản. Đó là một hệ thống đồ tể,” ông Mosher, người đã có mặt trong phòng mổ và chứng kiến các sự việc cho biết.
Những em bé của những người phụ nữ đã chuyển dạ khi họ đến nơi, đều bị sát hại bằng cách tiêm formaldehyde vào chỗ mềm trong hộp sọ của đứa trẻ đó ngay khi đầu đứa trẻ vừa nhú ra, ông Mosher nói.
Ông giải thích: Chính quyền Trung Quốc không thể có được các bác sĩ địa phương thực hiện những thủ tục này, vì vậy họ phải điều động các bác sĩ quân đội từ Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) đến để phá thai, triệt sản, và sát hại trẻ sơ sinh.
Trong những năm 1980 đến 2016, khi chính sách một con có hiệu lực, 400 triệu ca phá thai đã được thực hiện,” nghĩa là 400 triệu trẻ em chưa sinh và đôi khi mới sinh đã bị thiệt mạng,” ông Mosher nói.
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã chấm dứt chính sách một con vào năm 2016 khi tình trạng thiếu lao động ở nước này lên tới 4.1 triệu công nhân, ông Mosher cho biết.
Tuy nhiên, ĐCSTQ đã không buông tha cho việc kiểm soát gia tăng dân số Trung Quốc khi họ khôi phục chính sách hai con đã có từ trước năm 1980.
Bà Ella Kietlinska là một phóng viên của The Epoch Times tại New York, chuyên đưa tin về chính trị Hoa Kỳ và thế giới.
Anh Joshua Philipp là một phóng viên điều tra từng đạt giải thưởng của The Epoch Times và là người dẫn chương trình “Crossroads” (“Giao lộ thông tin”) của EpochTV. Anh là một chuyên gia được công nhận về chiến tranh không hạn chế, chiến tranh hỗn hợp phi cân xứng, hoạt động lật đổ, và các quan điểm lịch sử về các vấn đề ngày nay. Hơn 10 năm nghiên cứu và điều tra về Đảng Cộng sản Trung Quốc, hoạt động lật đổ, và các chủ đề liên quan giúp anh có cái nhìn sâu sắc về mối đe dọa toàn cầu này và bối cảnh chính trị.