‘Chùa’ và ‘Miếu’ khác nhau như thế nào?
Nói đến chùa miếu, điều đầu tiên mà mọi người thường nghĩ đến là kiến trúc của Phật gia. Trong ấn tượng của người đời, bởi vì Phật giáo ở Trung Quốc bắt nguồn từ Ấn Độ cổ, cho nên khi nói về nguồn gốc của chùa miếu, rất dễ hiểu lầm rằng sau khi Phật giáo truyền vào Trung thổ thì chùa miếu mới xuất hiện. Trên thực tế, “chùa” và “miếu” đều đã có trước ở Trung Quốc. Vậy vì sao lại gọi là chùa? Vì sao gọi là miếu? Giữa hai tên gọi này có gì khác biệt?
Trên đất Hán, người ta gọi nơi ở và tu hành của chúng tăng là Tự (chùa), Viện, Đường. Ví dụ như Thiếu Lâm Tự, Linh Ẩn Tự, Đại Bi Thiền Viện, .v.v. Trước khi Phật giáo truyền vào Trung Thổ, Trung Quốc cổ đại vốn đã có “Tự” rồi. Tuy nhiên, “Tự” khi đó không có quan hệ gì với Phật gia.
Trong “Thuyết văn giải tự,” hàm nghĩa của “Tự” (寺) là: “Tự, đình dã, hữu pháp độ giả dã” (Tạm dịch: Tự, cũng là đình, là nơi có phép tắc khuôn mẫu vậy); hoặc là “Tự, trị dã, quan xá dã” (Tạm dịch: Tự, là trụ sở, nơi ở của quan lại). Tại Trung Quốc cổ đại, “tự” vốn là công sở, nơi làm việc của quan viên. Kết cấu của chữ “tự” (寺): Trên là chữ “thổ” (土), dưới là chữ “thốn” (寸). Hàm ý rằng, từng tấc đất trong thiên hạ đều thuộc về quân chủ (vua), “tự” là thần phục quân chủ, làm việc vì Thiên tử, và là cơ quan chính thức giải quyết chính sự.
Vậy nên, thời cổ đại đã từng xuất hiện các quan thự như Đại Lý Tự, Hồng Lô Tự, Thái Thường Tự, .v.v. Các cơ quan này đều có quyền chấp pháp.
Vào năm Vĩnh Bình thứ 10 thời Đông Hán (tức năm 67 sau Công nguyên), các tăng nhân Thiên Trúc (Ấn Độ) như Nhiếp Ma Đằng, Trúc Pháp Lan, Thái Âm, Vương Tuân đã cùng nhau lên đường, dùng bạch mã chở Kinh đến Trung thổ. Đây được xem là cột mốc đánh dấu việc Phật giáo truyền vào Trung Thổ. Hán Minh Đế đã ban sắc lệnh xây dựng một tổ hợp công trình kiến trúc dựa theo kiểu cách ở Thiên Trúc, bên ngoài Ung Môn, phía Tây thành Lạc Dương, làm nơi cư trú của các tăng nhân Tây Vực. Công trình kiến trúc này có chức năng tương tự như “tự” của Hồng Lô Tự. Đồng thời, để ghi nhớ công lao của bạch mã chở Kinh, tòa kiến trúc này được đặt tên là “Bạch Mã Tự” (chùa Bạch Mã).
Từ đó về sau, “tự” không chỉ là quan thự, mà còn là tên gọi để chỉ nơi ở và tu hành của các vị tăng nhân. Cùng với sự phổ truyền của Phật giáo tại Trung Quốc, những kiến trúc tương ứng cũng càng ngày càng nhiều, đều được đặt tên là “Tự.” Dần dà, mọi người quen dùng “tự” để đại biểu cho kiến trúc Phật môn, và hàm nghĩa gốc là “quan thự” đã bị thế nhân quên lãng.
Nói đến lịch sử của “miếu,” có thể nói còn lâu đời hơn “tự.” Thời Trung Quốc cổ đại, miếu có rất nhiều ý nghĩa: chỉ triều đình (miếu đường), chỉ nơi thờ cúng bài vị của tổ tiên, cũng là nơi thờ cúng Thần linh và danh sĩ hiền nhân trong lịch sử.
Trong “Nhĩ nhã” ghi chép rằng: “Miếu, mạo dã, tiên tổ hình mạo tại dã” (Miếu, cũng là mạo, hình tướng tổ tiên tại đó vậy). Ban đầu, miếu là nơi để tưởng nhớ tổ tiên, tôn kính các bậc tiền bối trong gia tộc.
“Thuyết văn” giải thích chữ “Miếu” (廟) rằng: “Tôn tiên tổ mạo” (Tôn kính hình tướng tổ tiên). Nhà văn thời nhà Thanh Đoạn Ngọc Tài chú giải rằng: “Cổ giả miếu dĩ tự tiên tổ” (người xưa dùng miếu để thờ cúng tổ tiên). “Thích danh – Thích cung thất” giải thích rõ thêm rằng, câu “Tôn tiên tổ mạo” mà “Thuyết văn” nói chính là: “Miếu, mạo dã. Tiên tổ hình mạo sở tại dã” (Miếu, hình tướng vậy. Hình tướng tiên tổ ở đó vậy). Bởi thế, “miếu” là “tiên tổ hình mạo sở tại,” cũng chính là đất sở tại có hình tướng tổ tiên, nơi tế tự tổ tiên, nơi có chân dung tổ tiên.
Triều Chu coi trọng lễ nghĩa, đẳng cấp khác nhau có lễ khác nhau, cho nên miếu cũng chia đẳng cấp. Người không cùng đẳng cấp thì quy mô của miếu sẽ khác biệt. Trong “Lễ ký” nói: “Thiên tử thất miếu, Khanh ngũ miếu, Đại phu tam miếu, Sĩ nhất miếu.” Từ “Thái miếu” mà chúng ta thường nghe trong các bộ phim truyền hình chính là nói đến nơi Hoàng Đế (Thiên Tử) thờ phụng tổ tiên.
Tương truyền, từ triều Hán về sau, hàm nghĩa của “miếu” đã phát sinh cải biến. Nó thường được dùng để truy đặt tên thụy, sắc phong một số hiền thần hoặc nhân vật đức hạnh có sức ảnh hưởng lớn. Ví dụ như “Miếu Khổng Tử,” “Miếu Quan Đế”… giống như đền thờ. Các triều đại đều có các bậc hiền thần lúc sinh thời đã có rất nhiều cống hiến vì nước vì dân, sau khi qua đời, họ đã được triều đình truy phong công lao sự nghiệp, ban chiếu lệnh xứng đáng hưởng miếu. Điều này có nghĩa là những vị có công đức này có thể tiếp nhận hương hỏa tế tự của dân gian hoặc triều đình, lấy đó để thể hiện sự tưởng nhớ và sùng kính, lưu truyền qua các đời sau.