Câu chuyện Trung y: Cúi đầu nghe mệnh
Trên thế giới có một loại công năng đặc dị được gọi là “Túc mệnh thông.” Trong lịch sử, những nhân vật như Hứa Phụ, Gia Cát Lượng, Quỷ Cốc Tử, Lưu Bá Ôn v.v. đều là những bậc thầy đoán mệnh nổi tiếng, đều có năng lực biết trước tương lai.
Trong cuốn “Tăng Quảng Hiền Văn” viết: “Mệnh lý hữu thì chung tu hữu, mệnh lý vô thì mạc cường cầu” (Tạm dịch: Trong mệnh định có thì cuối cùng ắt có, trong mệnh định không có thì chớ cưỡng cầu). Những quan niệm về số mệnh như: nghe theo mệnh Trời, sống chết có mệnh, phúc họa do mệnh… đã trở thành một loại nhân sinh quan.
Trong “Trang Tử” viết: “Tri kỳ bất khả nại hà, nhi an chi nhược mệnh, đức chi chí dã” (Tạm dịch: Biết sự tình đã không thể sửa đổi mà lòng vẫn vui vẻ tuân theo mệnh, đó chính là chí đức vậy). Vương Bột thời nhà Đường có câu: “Quân tử an bần, đạt nhân tri mệnh” (Tạm dịch: Người quân tử an vui với cảnh nghèo, bậc đạt nhân tận tường số mệnh). Các bậc tiên hiền dạy bảo hậu nhân, vui với đạo Trời là tri mệnh, yên thân là lập mệnh, hiểu rõ bản thân là đạt mệnh, tri mệnh (hiểu rõ mệnh) sẽ không lo lắng, không mệt mỏi chạy đuổi theo mệnh số, đó chẳng phải cũng là một loại nhân sinh quan sao?
Một cặp vợ chồng trẻ, người chồng 29 tuổi, người vợ 27 tuổi, vừa mới kết hôn không lâu nhưng cha mẹ đã sốt ruột muốn ôm cháu sớm, không ngừng thúc giục, muốn nhanh chóng có người thừa kế hương hỏa ông bà tổ tiên. Người chồng hiền lành, người vợ thông minh dịu dàng, cùng thuyền chung mệnh, đều cung kính vâng theo lời cha mẹ chỉ bảo. Hai vợ chồng đều đang độ tuổi trẻ như vậy, việc sinh con hẳn là vấn đề dễ dàng thôi!
Trong lúc cảm thấy mọi việc dễ dàng, thì sự tình lại trở nên không dễ dàng. Một năm qua đi, xuân đi thu đến, bụng của người vợ vẫn không thấy động tĩnh gì. Gia tài bạc triệu, nhưng nhà cửa thì vắng vẻ đìu hiu. Đến lúc này, đôi vợ chồng trẻ cuống cuồng, không thể chờ đợi được nữa, bèn quyết định chọn phương pháp thụ tinh nhân tạo. Hai vợ chồng trải qua các bước kiểm tra kỹ lưỡng bằng các thiết bị hiện đại, đều không có vấn đề gì về sinh sản về sinh lý, điều kiện để mang thai rất tốt, tỷ lệ thụ thai rất cao.
Đang lúc vui mừng vì tỷ lệ thụ thai cao, thì tỷ lệ thụ thai thực tế lại giảm xuống mức bằng không. Hai vợ chồng đã thực hiện năm lần thụ tinh nhân tạo liên tục, nhưng tử cung của người vợ cứ “cứng đầu” không chịu hợp tác, không thực hiện thiên chức sinh sản. Ba năm trôi qua hoài công, kỹ thuật công nghệ cao không giúp được gì, không còn cách nào khác, đành phải tìm đến Trung y thử xem.
Thông thường trong việc điều trị vô sinh, cả vợ lẫn chồng đều được điều trị cùng nhau, bất kể vấn đề xảy ra từ phía nào, thì ít nhất trước tiên phải điều chỉnh tốt trạng thái sức khỏe của cả hai bên, sau đó mới có thể sinh ra em bé khỏe mạnh.
Người chồng bị chứng viêm mũi dị ứng, trào ngược thực quản, hay bị đau thắt lưng và nước tiểu có nhiều bọt. Nếu chứng viêm mũi dị ứng của người chồng không điều trị hết, rất dễ dẫn đến di truyền cho con cái, khiến cho em bé dễ bị cảm mạo. Điều này thường khiến cho cha mẹ không thể phân biệt được con mình đang bị dị ứng mũi hay cảm mạo. Nếu viêm mũi dị ứng bị hiểu lầm thành cảm mạo mà điều trị, đường hô hấp và đường tiêu hóa của em bé sẽ trở nên yếu hơn.
Người vợ có kỳ kinh nguyệt dài 7-8 ngày, lượng kinh nguyệt rất nhiều, có nhiều cục máu đông, kinh huyết có màu đỏ sẫm, đau bụng kinh rất dữ dội. Vì mang thai không thuận lợi nên cô cũng trở nên u uất, mất ngủ.
Người vợ sau khi thực hiện thụ tinh nhân tạo thì cân nặng từ 63kg tăng nhanh lên đến 75kg, vùng mông và đùi đặc biệt đầy đặn, chính là vóc dáng tốt nhất mà người mẹ chồng thời xưa thường muốn chọn con dâu, là dáng người sinh nhiều con. Trời ban cho mối lương duyên và cơ hội tốt như vậy, vì sao không nắm lấy?
Điều trị bằng châm cứu
Để điều trị chứng viêm mũi dị ứng của người chồng, châm các huyệt Bách Hội, Phong Trì, Khúc Trì, Hợp Cốc, Nghênh Hương. Trị chứng trào ngược thực quản, châm các huyệt Trung Quản, Nội Quan, Công Tôn, Túc Tam Lý. Trị chứng đau lưng, đi tiểu nhiều bọt, châm các huyệt Âm Lăng Tuyền, Thái Khê, Quan Nguyên, Trung Chữ. Nâng cao chất lượng tinh trùng, châm các huyệt Khí Hải, Quan Nguyên, Tam Âm Giao, trong đó châm huyệt Quan Nguyên trước, cảm giác châm truyền đến âm hành, rồi tiến hành châm các huyệt vị khác. Tự tiến hành cứu ngải ở huyệt Mệnh Môn, Thận Du, mỗi huyệt vị thực hiện cứu ngải trong thời gian 10 phút. Buổi sáng và buổi tối dùng bàn tay khum lại vỗ vào huyệt Quan Nguyên 108 cái.
Đối với người vợ, lượng kinh nhiều, gan điều tiết không tốt, châm các huyệt Huyết Hải, Tam Âm Giao, Hành Gian, Bách Hội, hoặc châm thêm các huyệt Tam Âm Giao, Âm Lăng Tuyền, tự thực hiện cứu ngải ở các huyệt Ẩn Bạch, Đại Đôn. Kinh nguyệt có nhiều cục máu đông, do khí trệ huyết ứ, châm các huyệt Huyết Hải, Tam Âm Giao. Đau bụng trong quá trình hành kinh, tuần hoàn máu ở vùng bụng dưới kém, châm các huyệt Hợp Cốc, Huyết Hải, Tam Âm Giao, Khí Hải, Tam Túc Lý.
Mất ngủ, châm ở các huyệt Bách Hội, Ấn Đường, Thần Đình, tiến hành châm từ trên xuống dưới. Can khí tích tụ, châm ở huyệt các Thái Trùng, Dương Lăng Tuyền. Cần tăng cường chức năng niêm mạc tử cung để chuẩn bị cho việc mang thai, điều này do Estrogen làm chủ, phải bổ thận, châm ở các huyệt Quan Nguyên, Thái Khê. Vô sinh, châm ở các huyệt Nội Quan, Khí Hải, Quan Nguyên, Trung Cực, Bào Môn, Tử Hộ. Mỗi tuần thực hiện châm cứu một lần, ngoài ra uống thêm thuốc Trung y thành phẩm, đồng thời dặn dò các điều cần chú ý.
Khi ở nhà, để người vợ yên tâm điều lý thân thể, chỉ cho cô ấy làm những công việc nhẹ nhàng. Theo thời gian trôi qua, bệnh của người chồng đã hết, trở nên khỏe mạnh hoàn toàn. Kinh nguyệt của vợ cũng đã được điều lý khá tốt rồi, mọi thứ đã bình thường, chỉ có tình trạng gan khí tích tụ vẫn khó giải quyết. Mỗi lần sinh hoạt vợ chồng đều là vì mục đích sinh con, cho nên áp lực rất lớn, hoàn toàn không thể hưởng thụ niềm vui của việc cá nước thân mật. Tôi khuyên họ, nên tận hưởng niềm vui của việc sinh hoạt vợ chồng, cả hai phải đạt đến cao trào, như vậy càng tăng khả năng thụ thai.
Hai vợ chồng đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng, chỉ còn thiếu gió Đông, nhưng gió Đông kia cứ chậm chạp chẳng chịu vào cửa. Mỗi lần đến kỳ kinh nguyệt, khuôn mặt của người vợ buồn bã ỉu xìu chảy dài còn hơn cả mặt ngựa, miệng dẫu ra như thể có thể treo được thịt heo. Đã một năm tám tháng trôi qua, Tống Tử Quan Âm chẳng biết đã đưa em bé đến nơi nào rồi?
Tôi cũng nghĩ mãi mà không hiểu được, thuốc cần dùng đều đã dùng, các huyệt vị cần châm cứu cũng đã châm, những điều cần chú ý họ đều đã thực hiện hết, vì sao vẫn không thấy hiệu quả? Đã dùng hết biện pháp, lực bất tòng tâm, thực là khó xử!
Vừa hay thời gian đó, tôi tham gia khóa học về Dịch lý châm cứu. Trong lớp học, tôi đã đặc biệt đưa ra trường hợp của đôi vợ chồng này, nhờ giảng viên xem thử Bát tự của họ. Ba vị giảng viên Dịch Lý đã đưa ra kết luận đồng nhất: Hai năm sau đôi vợ chồng này mới có con. Một vị trong số họ là bác sĩ nói rằng, nếu nói cho bệnh nhân biết sự thật này, thì có thể bệnh nhân sẽ không đến khám nữa.
Chờ khi đôi vợ chồng này đến phòng khám, xuất phát từ đạo đức của người làm nghề y, tôi không muốn lãng phí tiền bạc và thời gian của họ, cũng không muốn họ mãi bị mắc kẹt trong sự thất vọng và dằn vặt “vì sao không thể mang thai.” Vì thế, tôi đã đem tất cả những lời phân tích thực tế của ba vị giảng viên kia nói lại cho họ nghe.
Hai vợ chồng nghe xong, mặt tái đi, sau một lúc im lặng, người vợ phản ứng: “Cần phải chờ đợi lâu như thế sao?” Để có được một người con, mà phải chờ đến bảy năm, những nỗ lực trước đây, dằn vặt tinh thần và tiền bạc, chẳng phải đều uổng phí sao? Nếu biết sớm thì chỉ cần tốn một nghìn đồng mời người bói mệnh, cần gì phải chịu khổ đến bây giờ!
Con người chính là con người, có thể kiềm chế được sao? Quả đúng như lời ba vị giảng viên kia nói, đôi vợ chồng này từ đó không còn đến khám nữa.
Chuyện này, tôi đã sớm quên. Thế nhưng vào một buổi chiều mưa to nọ, một người đàn ông đến phòng khám, nhưng cũng không phải là đến để khám bệnh, chỉ nói muốn gặp bác sĩ. Khi người đó bước vào, tôi vừa nhìn thì nhận ra đó chính là người chồng kia. Tôi vô cùng ngạc nhiên! Thật đúng như lời vị giảng viên Dịch lý đã nói, sau hai năm, hai vợ chồng họ thật sự đã sinh được một bé gái, và hôm nay người chồng mang theo một hộp bánh đầy tháng đến để chia sẻ niềm vui.
Cho dù khoa học kỹ thuật phát triển đến đâu, lý luận y học rộng lớn bao nhiêu, kỹ thuật y học đạt đến trình độ cao như thế nào, con người có tận sức ra sao, thì trong điện đường hùng vĩ của “Mệnh,” cuối cùng chỉ có thể tận hết sức mình mà tuân theo Thiên mệnh, chính là cúi đầu nghe mệnh.
(Bài viết được trích từ cuốn sách “Bát diện đương phong – Tuyệt xử phùng sinh” của bác sĩ Trung y Ôn Tần Dung, do Nhà xuất bản Bác Đại – Đài Loan ấn hành).