Bùi Thị Xuân – Kỳ 1: Vị nữ tướng anh kiệt thời cận đại
“Vận nước đang xoay chuyển
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng.
Khảng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung.”(Khuyết danh)
Xưa nay lòng trung nghĩa đâu chỉ là khí phách riêng của đấng nam nhi đại trượng phu… xuân này ta hãy cùng xem lại những trang sử ghi chép tấm lòng trung liệt tuyệt vời của một vị nữ tướng mang tên mùa Xuân: nữ tướng Bùi Thị Xuân, người đã cống hiến toàn bộ cuộc đời và tài năng của mình cho sự thành công của triều đại Tây Sơn…
“Xưa nay khăn yếm vượt mày râu
Bùi thị phu nhân đứng bậc đầu
Chém tướng chặt cờ khoe kiếm sắc
Vào thần ra quỷ tỏ mưa sâu
Quên nhà nợ nước đem toan trước
Vì nước thù nhà để tính sau
Tài đức nghìn thu còn nức tiếng
Non cần chảy ngọc bởi vì đâu?”
(Khuyết danh).
“Trung nghĩa” hay “trung quân ái quốc” là những phẩm chất, giá trị đạo đức hàng nghìn năm qua vẫn được đề cao trong văn hóa truyền thống. Giá trị tốt đẹp này phần lớn bắt nguồn từ Nho giáo. Nó chẳng những là nền tảng tư tưởng để các vĩ nhân xây dựng nên các triều đại huy hoàng, mà còn là tín điều có thể giúp cho quốc gia được bảo vệ trong lúc nguy nan bởi những trung thần nghĩa sĩ lẫm liệt. Có lẽ vì thế mà tấm gương trung nghĩa đã và sẽ luôn là những câu chuyện lay động lòng người, dù cho lịch sử đã trải qua bao nhiêu thế hệ. Có thể nhiều người Việt không thuộc lịch sử nước nhà, nhưng chắc chắn rất nhiều người vẫn ghi nhớ câu nói hiên ngang của Thái sư Trần Thủ Độ “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo” hoặc rơi lệ trước lời trăn trối “khoan sức dân” làm “thượng sách giữ nước” đầy trí tuệ của Hưng Đạo Vương. Tuy nhiên, lòng trung nghĩa đâu chỉ là khí phách riêng của đấng nam nhi đại trượng phu hoặc các anh hùng tài ba cái thế… xuân này ta hãy cùng xem lại những trang sử ghi chép tấm lòng trung liệt tuyệt vời của một vị nữ tướng mang tên mùa Xuân: nữ tướng Bùi Thị Xuân, người đã cống hiến toàn bộ cuộc đời và tài năng của mình cho sự thành công của triều đại Tây Sơn.
Tuổi nhỏ chí cao, xếp bút nghiên theo nghề cung kiếm
Bùi Thị Xuân – chữ Hán: 裴氏春 (1752–1802), là con của Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên là chú, vốn người ấp Xuân Hòa, thôn An Hòa, thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, nay thuộc xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn. Vùng rừng núi ấp Xuân Hòa này phía tây liền với Phú Phong, phía đông lấy suối làm ranh giới, nam cận núi, bắc giáp sông, địa thế hiểm yếu phi thường nên con người ở đây có phần nhiều cá tính mạnh mẽ và chuộng võ hơn văn.
Có lẽ vì thế mà trời khiến cho Bùi Thị Xuân từ nhỏ đã xinh đẹp lại còn có sức mạnh bẩm sinh, là thiên bẩm của một nhân tài hàng đầu cho võ học. Nên dù lớn lên trong gia đình khá giả, được học hành đàng hoàng, đầy đủ công dung ngôn hạnh, nổi tiếng viết chữ đẹp nhưng trong lòng bà chỉ muốn học theo gương Hai Bà Trưng, Bà Triệu chứ không muốn lấy chồng sinh con như những nữ nhân bình thường khác.
Việc phải đến đã đến. Vào năm 12 tuổi khi đến trường làng học, nhân lúc thầy đồ có việc ra ngoài, giao lớp lại cho trưởng tràng coi sóc. Bọn học trò nam muốn đem Bùi Thị Xuân ra giễu cợt bèn ra câu đối : “Ngoài trai trong gái, dưa cải dưa môn”. Một người trong bọn đối lại: “Đứng Xuân ngồi thung, lá vông lá chóc”. Cả bọn cười ầm lên. Bà giận đỏ mặt, vung tay ra quyền tới tấp vào hai người ấy rồi bỏ về, từ ấy quyết theo nghiệp võ.
Sau khi bỏ văn học võ, mấy năm sau tài nghệ võ công của Bùi Thị Xuân tăng tiến vượt bậc và nổi danh khắp vùng. Tương truyền Bùi Thị Xuân được một bà lão bí ẩn dạy dỗ rất nhiều năm vào ban đêm.
Trích sử:
“Trước kia không biết Bùi Thị Xuân học võ với ai và học vào lúc nào. Nhưng từ khi bỏ học văn thì đêm đêm có một lão bà đến dạy. Dạy từ đầu hôm đến gà gáy lần thứ nhất thì bà lão lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao. Suốt ba năm trời, trừ những khi mưa gió, đêm nào bà lão cũng đến cũng đi đúng giờ giấc. Dạy quyền, dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao thì cột hai bao cát nơi chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ, rồi đổi bao to dần, cuối cùng mới nhảy chân không. Còn nhảy xa thì ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi ngoài bụi, níu đọt uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy. Ðêm học ngày tập. Ðến 15 tuổi thì tài nghệ đã điêu luyện.Một hôm bà lão đến, cầm tay Bùi Thị Xuân khóc và nói: -Ta có duyên cùng con chỉ bấy nhiêu. Ðêm nay ta đến từ biệt con.Bùi Thị Xuân khóc theo và nài nỉ xin cho biết tánh danh và quê quán. Bà lão đáp: – Ta ở gần đây. Trong ba hôm nữa con sẽ biết tin tức. Nhưng con phải giữ bí mật.
Nói rồi, vụt một cái biến mất.Ba hôm sau, ở thôn An Vinh có một đám ma của một bà lão. Bà lão nhà nghèo, góa bụa, sống với vợ chồng người con gái làm nghề nông. Khi Bùi Thị Xuân được tin, tìm đến thì việc chôn cất đã xong. Biết bà lão đây chính là thầy mình, nhưng nhớ lời thầy dặn, chỉ điếu tang như một người thường. Về nhà mới đợi lúc khuya vắng, thiết hương án nơi vườn dạy võ mà thành phục. Nhưng chỉ để tâm tang”.
(Trích: Nhà Tây Sơn – Quách Tấn Quách Giao).
Đến nay người ta vẫn không biết lai lịch bà lão ấy nhưng qua những chiến tích võ công tung hoành sa trường không địch thủ của Bùi Thị Xuân thì chắc hẳn Sư phụ lão phụ nhân kia cũng là một tuyệt thế cao thủ ẩn danh nơi giang hồ (theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hòa thì đó là bà cao tổ của ông Hương mục Ngạc, một võ sư trứ danh ở An Vinh, thời Pháp thuộc).
Theo gương Trưng chúa, trai anh kiệt mới xứng thành đôi
Trưng Nữ Vương khi xưa khởi sự có dưới tay một đạo quân các nữ tướng nữ binh hết sức tinh nhuệ làm khiếp vía quân thù. Hơn nghìn năm sau ở đất Tây Sơn nay lại có Bùi Thị Xuân muốn học theo Trưng chúa, thế nên ông Trời cũng an bài cho bà thành lập một đạo quân như thế:
“Một hôm Bùi Thị Xuân ở ngoài về, tình cờ thấy đứa ở gái dùng hai chiếc đũa bếp làm kiếm múa. Múa đúng bài bản phép tắc. Bùi Thị Xuân giật mình! Té ra cô ả ngày ngày thấy tiểu chủ múa kiếm, bắt chước múa theo, lâu thành quen tay. Ðợi cô ả múa hết bài, Bùi Thị Xuân chạy đến ôm chầm, và khen: Em giỏi, em giỏi lắm! Từ ấy cho cô ả dùng gươm thiệt mà tập. Lại rủ chị em trong xóm ai muốn học võ học kiếm thì ban đêm rảnh việc đến nhà, Bùi Thị Xuân dạy cho. Không mấy lúc nhà họ Bùi trở thành trường dạy võ. Ðệ tử từ năm ba người trong xóm vụt nhảy lên hàng chục, hàng vài ba chục”. (Trích: Nhà Tây Sơn – Quách Tấn Quách Giao).
Lớp võ gia đình của Bùi Thị Xuân ai ngờ được sau này có thể cho ra lò những nữ tướng kiệt xuất nhất cho nhà Tây Sơn, tục gọi là Tây Sơn Ngũ Phụng Thư. Họ gồm có:
- Bùi Thị Nhạn (sau này là vợ vua Quang Trung);
- Nguyễn Thị Dung (vợ tướng Trương Đăng Đồ nhà Tây Sơn);
- Huỳnh Thị Cúc (nữ tướng dưới quyền Bùi Thị Xuân);
- Trần Thị Lan (sau này là vợ đô đốc Nguyễn Văn Tuyết);
Năm người phụ nữ tài danh tụ cùng một chỗ đã làm nên kỳ tích. Họ đã cùng nhau tổ chức, huấn luyện và điều khiển một đoàn tượng binh gồm một trăm thớt voi và một đoàn nữ binh trên hai ngàn người cho nhà Tây Sơn. Ai cũng biết tượng binh chính là bảo bối trên chiến trường và uy danh của các danh tướng Tây Sơn từ Trần Quang Diệu đến Nguyễn Huệ đều là được lập nên trên bành voi chiến.
Vì cho rằng chuyện lập gia đình không quan trọng và để chuyên tâm theo nghiệp cung kiếm, nên mặc dù là người có nhan sắc, lại đã hơn 20 tuổi rồi nhưng Bùi Thị Xuân vẫn ở vậy một mình. Có lẽ cũng một phần vì xứ Tây Sơn chưa có anh tài nào đủ khả năng lọt vào mắt xanh của bà.
Nhưng trời cao không phụ người chí lớn, Ngài chẳng những an bài cho Bùi Thị Xuân gặp gỡ và kết duyên cùng một bậc quân tử tài đức vẹn toàn mà còn có thể cùng bà làm nên công nghiệp hiển hách cho nhà Tây Sơn, đó là danh tướng Trần Quang Diệu:
“Một hôm Bùi Thị Xuân cùng vài cô học trò đi săn ở vùng núi Thuận Ninh, xảy gặp một tráng sĩ đương đánh cùng một mãnh hổ. Tráng sĩ mình đầy máu me, sức đã sắp đuối. Hổ hung hăng chụp vấu. Bùi Thị Xuân hét lên một tiếng, rút song kiếm xáp vào cứu tráng sĩ. Hổ bỏ tráng sĩ, đánh cùng Bùi Thị Xuân. Hổ đã lanh, tránh khỏi những nhát kiếm hiểm độc, Bùi Thị Xuân lại càng lanh hơn, tránh khỏi những cái vồ như bão như chớp, khiến mấy phen hổ chụp hụt bị té nhào. Hổ cự địch với tráng sĩ đã lâu, sức đã mỏi, nên động tác chậm dần. Cuối cùng bị một nhát kiếm nơi vai, gầm lên một tiếng bỏ chạy Bùi Thị Xuân trở lại băng bó cho tráng sĩ Hỏi tên. Ðáp: – Trần Quang Diệu.
Thoát chết, Trần yêu cầu đưa về Kiên Mỹ, nhà Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc và Bùi Thị Xuân vốn đã từng nghe tiếng nhau, nhưng chưa có dịp làm quen. Nhờ cọp theo gió, gió đưa duyên mà nên nghĩa vườn đào Bùi, Trần, Nguyễn. Rồi để cho nghĩa thêm nặng tình thêm thâm, Nguyễn Nhạc đứng làm mai và làm luôn chủ hôn để Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân nên đôi nên lứa”.
Minh Bảo