BÀI VIẾT CHUYÊN SÂU: Nhà tâm lý học cảnh báo trò chơi điện tử có tính chất tương tự như huấn luyện quân đội
Khi những vụ xả súng hàng loạt xuất hiện trên các tiêu đề, một người đàn ông vốn dành nhiều năm nghiên cứu về những gì đã khiến người ta sát hại [người khác] cho biết hình thức giải trí bạo lực rõ ràng chính là cuốn cẩm nang dành cho nhiều kẻ sát nhân.
Theo Trung tá Lục quân Hoa Kỳ Dave Grossman đã về hưu, truyền thông bạo lực uốn nắn tính cách của người dùng dịch vụ giống như việc đào tạo quân sự cơ bản huấn luyện những binh sĩ sát nhân. Ông Grossman là một nhà tâm lý học, tác giả, và là diễn giả trước công chúng. Ông cho biết phương tiện truyền thông, đặc biệt là các loại trò chơi điện tử, làm cho hành vi dị thường trở thành bình thường đến mức tử vong hay bị thương tích đều sẽ được đền đáp.
“Đây là trò chơi bệnh hoạn; đây là trò chơi rối loạn chức năng,” ông Grossman chia sẻ với The Epoch Times.
Một nghị quyết năm 2015 do Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (APA) thông qua đã ủng hộ tuyên bố này của ông.
“Nghiên cứu khoa học đã chứng minh mối liên quan giữa việc chơi trò chơi điện tử bạo lực và sự gia tăng hành vi thô bạo, biểu hiện cảm xúc hung hăng, những nhận thức hung bạo cùng với sự suy giảm hành vi vì lợi ích xã hội, sự đồng cảm, và cam kết đạo đức,” nghị quyết nêu trên đã viết.
Trong một thư điện tử được gửi tới The Epoch Times, phát ngôn viên của APA Kim Mills xác nhận rằng đó vẫn luôn là quan điểm của APA. Tuy nhiên, những người gièm pha ông Grossman nói rằng mối liên quan giữa hình thức giải trí bạo lực và hành vi bạo lực thực sự là rất mong manh.
Ông Chris Ferguson, giáo sư tâm lý học tại Đại học Stetson ở DeLand, tiểu bang Florida, đã tiến hành phân tích tổng hợp một số nghiên cứu. Ông nhận định rằng, nói chung, những cuộc nghiên cứu này, có chăng đi nữa thì cũng chỉ đưa ra một mối liên quan thiếu thuyết phục.
“Kỳ thực, chúng tôi chưa tìm ra được bất kỳ bằng chứng nào cả,” ông Ferguson nói với The Epoch Times.
Ông Grossman thì không đồng ý như vậy. Ông nói những trò chơi này dạy cách sát nhân giống như cách mà các binh sĩ được đào tạo thông qua “điều kiện hóa từ kết quả” (operant conditioning.)
Vào cuối những năm 1800, nhà tâm lý học người Nga Ivan Pavlov đã đi tiên phong trong kỹ thuật này khi ông nhận ra rằng những con chó mà ông sử dụng trong công việc sẽ tiết nước bọt bất cứ khi nào người trợ lý cho chúng ăn bước vào phòng thí nghiệm.
Ông Pavlov đã phát triển kỹ thuật trên để có được một phản ứng phản xạ cụ thể trước những kích thích nhất định. Trong việc huấn luyện hành động chấp pháp, điều này được gọi là “trí nhớ cơ bắp” (muscle memory). Phản xạ này khiến cho hành động rút vũ khí và ra lệnh trở thành một phản ứng tự động trước hành vi đe dọa hoặc thù địch.
Sau Đệ nhị Thế chiến, quân đội Hoa Kỳ đã sáng tạo các phương pháp huấn luyện binh sĩ bắn súng trong chiến đấu sau khi nhà sử học quân sự, Chuẩn tướng S.L.A. Marshall, công bố dữ liệu cho thấy rằng chỉ có 15% đến 20% binh sĩ trong Đệ nhị Thế chiến đã bắn súng trong trận chiến.
Theo ông Grossman, hầu hết mọi người đều có một “công tắc an toàn” theo bản năng để kiểm soát các cơn bạo lực bốc đồng. Ông cho biết đây là một cơ chế tiến hóa để duy trì nòi giống mà biểu hiện ra như là một sự bất đắc dĩ phải bắn vào kẻ thù mặc dù kẻ thù đó có thể bắn họ.
Trong những năm gần đây, các cựu chiến binh của Đệ nhị Thế chiến và các nhà sử học đã phản đối dữ liệu của ông Marshall. Họ cho rằng chắc hẳn Hoa Kỳ sẽ thua cuộc chiến này với tỷ lệ bắn chỉ 20%. Ngoài ra, các nhà sử học đã xem xét các tuyên bố của ông Marshall và nhận thấy có nhiều tuyên bố là sai sự thật, trong đó có câu chuyện về những kinh nghiệm chiến trường của ông.
Ông Grossman phản bác rằng có những nghiên cứu ủng hộ cho số liệu của ông Marshall.
Dù sự thật là gì đi nữa, ngay từ đầu các nhà lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ đã chấp nhận dữ liệu của ông. Họ đã thay đổi phương cách huấn luyện dựa trên những con số của ông Marshall; ông Grossman cho biết chương trình huấn luyện này đã trở thành một ví dụ về phản xạ có điều kiện (classic conditioning.)
Các binh sĩ không còn bắn các mục tiêu hồng tâm trên phạm vi truyền thống nữa. Hiện nay, họ đứng trong một hố cá nhân nhìn ra một chiến trường mô phỏng với những chiếc xe bị phá hủy, cây cối ngã, và hố bom.
Khi các mục tiêu hình người xuất hiện từ phía sau chỗ ẩn nấp, những binh sĩ được ra lệnh “giao chiến với mục tiêu gần nhất” cho đến khi mục tiêu đó rơi xuống. Họ lặp lại hành động cho mục tiêu tiếp theo. Ngoài [việc được trao] phần thưởng ngay lập tức khi mục tiêu ngã xuống, các binh sĩ còn nhận được huy chương đánh dấu thành công của họ dựa trên số lượng mục tiêu mà họ bắn trúng. Chu kỳ khen thưởng này là huấn luyện phản xạ có điều kiện nhằm tắt đi công tắc an toàn theo bản năng của các binh sĩ.
Những binh sĩ cũng được huấn luyện về các quy tắc chiến tranh và thời điểm không được phép nổ súng.
Ông Grossman cho biết ông có thể chứng thực tính hiệu quả của việc huấn luyện này. Ông cho biết có dữ liệu cho thấy tỷ lệ bắn súng [trong chiến tranh] Việt Nam lên tới 90%. Ông Grossman nhận định rằng trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất (first-person shooter game) thông thường cung cấp cách huấn luyện tương tự.
Với âm thanh thực, đồ họa điện toán (computer graphics) thường xuyên được cải thiện và những phần thưởng được nhận liền, nhiều người chơi không còn nhạy cảm với bạo lực và tội phạm đẫm máu trong khi gắn kết hoạt động này với niềm vui và sự thích thú. Ngoài ra, ông Grossman nêu ra rằng những binh sĩ chỉ huấn luyện trong những khoảng thời gian cụ thể, còn người chơi trò chơi điện tử thường tự đặt lịch trình cho mình.
Một bài báo hồi tháng 11/2017 trên tạp chí Nhi khoa của Học viện Nhi khoa Mỹ quốc (American Academy of Pediatric) cho biết thanh thiếu niên dành trung bình 9 giờ mỗi ngày cho một số hình thức truyền thông giải trí.
“Những trò chơi video, đặc biệt, ngày càng phổ biến, với một số thanh thiếu niên cho biết rằng họ chơi [hơn] 40 giờ mỗi tuần,” bài báo này viết.
Ông Grossman nêu ra rằng những trò chơi điện tử đã trở nên phổ biến.
“Thời nay có rất nhiều trẻ em như thế này,” ông nói.
Ông Ferguson phản bác rằng hàng triệu người chơi trò chơi điện tử và không bao giờ sát hại ai khác ngoài kẻ thù kỹ thuật số của họ. Ông tin rằng hiểm họa này đã được giới truyền thông thổi phồng quá mức khi đưa tin về các vụ sát nhân hàng loạt và chỉ muốn đổ lỗi. Theo ông Ferguson, hầu hết những người chơi đều muốn thư giãn và vui vẻ.
Sự thích thú là một phần của vấn đề
“Khi người ta biết rằng những gì họ đang dùng chỉ là hư cấu, thì họ không thực sự học được gì từ đó cả. Bộ óc của chúng ta có thể phân biệt thực tế của một tình huống và gán các giá trị khác nhau cho tình huống đó,” ông Ferguson nói.
Ông Grossman cho rằng sự thích thú là một phần của vấn đề. Trong trò chơi vô cùng nổi tiếng “Grand Theft Auto,” người chơi được tưởng thưởng khi cướp xe của các nạn nhân ngẫu nhiên bằng nhiều loại vũ khí khác nhau. Mỗi lần bắn súng đều kèm theo máu phun ra, tiếng kêu đau đớn, và điểm số ngày càng tăng.
Những người chơi cũng có thể giao cấu với gái mại dâm trong trò chơi đó và đạt được địa vị bằng cách đánh bại hoặc sát hại nhân vật đó để lấy lại tiền của mình. Ông Grossman cho biết điều này có thể rất tai hại đối với một đứa trẻ hoặc thanh thiếu niên, những người vốn không thể phân biệt được tính duy thực của trò chơi với thực tế ngoài đời.
Tuy nhiên, ông Ferguson cho thấy rằng những người chỉ trích trò chơi điện tử thường hay chọn lọc những tội ác để họ đổ lỗi cho trò chơi đó. Ông nói rằng khi hai người đàn ông trung niên gốc Á thực hiện các vụ sát nhân hàng loạt khác nhau trong hai phòng khiêu vũ ở tiểu bang California hoặc khi một kẻ sát nhân 64 tuổi bắn vào đám đông xem hòa nhạc ở thành phố Las Vegas, thì không ai nói về việc họ chơi trò chơi điện tử.
Tương tự như vậy, kẻ sát nhân đã hoành hành tại Trường tiểu học Sandy Hook ở Connecticut vào năm 2012 được biết đến là người yêu thích các trò chơi điện tử. Trò chơi yêu thích của ông ta là trò chơi bất bạo động, “Dance Dance Revolution,” trong đó người chơi phải giẫm lên các miếng đệm cụ thể trên sàn đúng lúc với nhạc nền của trò chơi.
Kiểm soát súng không phải là một giải pháp
“[Những trò chơi điện tử không] phải là vấn đề tranh cãi chính mà chúng ta nên tập trung vào. Tôi nghĩ những người sở hữu súng có trách nhiệm thì không phải là vấn đề [đáng nói] ở đây,” ông Ferguson nói.
Ông tin rằng việc xây dựng và gây quỹ cho các cơ sở chăm sóc sức khỏe tâm thần là một giải pháp tốt hơn cần được khai thác.
Ông Grossman đồng thuận rằng chăm sóc sức khỏe tâm thần là quan trọng. Tuy nhiên, ông nói điều cần thiết là ở chỗ giới truyền thông phải chịu trách nhiệm về việc tiếp thị và quản lý nội dung bạo lực. Ông nói rằng những trò chơi điện tử là nguyên nhân chính, nhưng những bộ phim và chương trình truyền hình cũng gây ra những rắc rối.
“Đã đến lúc giới truyền thông đứng lên và nhận một số trách nhiệm,” ông Grossman nói.
Đây không phải là lần đầu tiên một công nghệ mới nhận nhiều sự quan tâm từ công chúng.
Không phải là vấn đề đầu tiên
Vào năm 1897, đấu quyền lấy tiền là bất hợp pháp ở mọi nơi trừ tiểu bang Nevada. Tuy nhiên, các tòa án đã phán quyết rằng các bộ phim về các trận đấu quyền có thưởng không vi phạm luật liên bang. Vì vậy, các quan chức địa phương phải quy định thông lệ này.
Theo trang web studiobinder.com, tiểu bang Maine cấm những bộ phim bạo lực. Bất kỳ ai chiếu một bộ phim về đấu quyền có thưởng đều có thể bị phạt 500 USD.
Các nhà làm phim đã thách thức luật của tiểu bang Maine trên cơ sở Tu chính án thứ Nhất. Trong án lệ của Tối cao Pháp viện năm 1915, Mutual Film Corp. kiện Industrial Commission of Ohio (Ủy ban Công nghiệp của tiểu bang Ohio), Pháp viện đã phán quyết rằng Tu chính án thứ Nhất Không áp dụng cho phim ảnh.
Pháp viện đã phán quyết rằng điện ảnh là một loại hình kinh doanh giải trí và có thể được quy định. Trong 37 năm tới, những bộ phim sẽ chịu sự kiểm duyệt của chính phủ.
Vào năm 1952, Tối cao Pháp viện xét xử án lệ Burstyn kiện Wilson. Tiểu bang New York đã thu hồi giấy phép phát hành bộ phim của Ý “The Miracle” của ông Joseph Burstyn vì bộ phim này có tính chất báng bổ thần thánh.
Pháp viện phán quyết rằng ngành điện ảnh đã thay đổi đáng kể kể từ năm 1917. Phim ảnh đã trở thành một phương tiện tác động đến nền văn hóa và thúc đẩy các ý tưởng. Vì vậy, phim ảnh xứng đáng được Tu chính án thứ Nhất bảo vệ.
Sự bảo vệ này đã được mở rộng cho các trò chơi điện tử trong án lệ năm 2011, Brown kiện Entertainment Merchants Association (Hiệp hội Thương nhân Giải trí, nay được gọi là OTT.X).
Trong vụ kiện đó, một luật về khiêu dâm của tiểu bang California cấm bán trò chơi điện tử bạo lực cho trẻ em vị thành niên đã bị hủy bỏ vì tiểu bang này không tìm ra được mối liên quan giữa bạo lực trong trò chơi điện tử và bạo lực ngoài đời. Ngoài ra, ngành trò chơi này còn có một hệ thống xếp hạng tự nguyện mà các bậc cha mẹ có thể sử dụng để xác định trò chơi nào phù hợp với con mình.
Cố Thẩm phán Tối cao Pháp viện Antonin Scalia đã chấp bút cho bản ý kiến của khối đa số đồng thuận rằng bạo lực trong ngành giải trí dành cho trẻ em không có gì mới.
“Các án lệ của chúng ta đã cho thấy rõ ràng rằng việc Tu chính án Thứ Nhất không bảo vệ cho hành vi khiêu dâm là không bao gồm bất cứ điều gì mà cơ quan lập pháp thấy có gì sai trái mà chỉ là mô tả hành vi tình dục,” ông Scalia viết. “Truyện cổ Grimm chẳng hạn, đúng là tàn nhẫn.”
Đại diện của OTT.X không trả lời các cuộc gọi hoặc thư điện tử yêu cầu bình luận.
Ông Grossman cho biết phán quyết định đó của Tối cao Pháp viện đã bỏ qua một số sự thật căn bản.
Mặc dù ngành giải trí dành cho trẻ em từ lâu đã có nội dung bạo lực, nhưng ông cho biết có sự khác biệt rõ ràng giữa việc con sói đang cố gắng thả chiếc đe của hãng Acme vào người đi đường và việc một thành viên băng đảng do máy điện toán tạo ra đang bắn một cảnh sát bằng súng máy. Cả hai đều có thể là hình thức ngôn luận được bảo vệ, nhưng chỉ có một hình thức ngôn luận có vẻ như thật đối với một đứa trẻ.
Theo ông Grossman, nếu phương tiện truyền thông thực sự không ảnh hưởng đến hành vi, thì sẽ không có những thứ gì như ngành quảng cáo. Ông nói rằng sự thoái thác của truyền thông là những nỗ lực bất chấp đạo lý để trốn tránh trách nhiệm. Ông cho biết tình trạng này đã trở nên nghiêm trọng hơn kể từ năm 2011.
Ông Grossman nói nghiên cứu của ông cho thấy các tay súng chọn mục tiêu dựa trên một số yếu tố — và giới truyền thông đưa ra ít nhất một trong số đó.
“Sự nổi tiếng chính là một trong những động cơ của những tội ác này,” ông Grossman cho hay.
Để thu hút sự chú ý của giới truyền thông mà họ khao khát, những kẻ xả súng thường chọn mục tiêu có số lượng nạn nhân nhiều nhất. Người ta tin rằng kẻ tấn công trường tiểu học Sandy Hook đã chọn ngôi trường đó bởi vì các nạn nhân sẽ không thể chống trả, và việc sát hại trẻ em sẽ làm dấy lên sự phẫn nộ tột cùng.
Vào năm 2012, kẻ sát hại 12 người ở Aurora, tiểu bang Colorado, đã chọn một rạp chiếu phim đang chiếu bộ phim Batman mới nhất bởi vì nơi đó sẽ đầy những nạn nhân không có vũ khí. Rạp chiếu phim này được chỉ định là “khu vực cấm súng.”
Theo trang web của Trung tâm Nghiên cứu Phòng chống Tội phạm (Crime Prevention Research Center, CPRC), tay súng đó đã quyết định không tấn công một phi trường vì an ninh quá chặt chẽ. Hắn ta viết rằng hắn ta cũng sẽ tránh bắn cảnh sát vì “họ sẽ hạ gục chúng ta.”
Ông John Lott, một nhà kinh tế, nhà nghiên cứu, tác giả, và là diễn giả trước công chúng, đã thành lập trung tâm CPRC này. Trong một cuộc hội thảo Tại Hội nghị thường niên và Triển lãm của Hiệp hội Súng trường Quốc gia ở Indianapolis hôm 15/04, ông Lott cho biết rằng hầu hết những kẻ xả súng hàng loạt đều có hai mục tiêu.
Không có động cơ chính trị
“Nói chung, 72% những kẻ xả súng không thể hiện quan điểm chính trị. Điều rất rõ ràng là họ muốn tự tử, và họ muốn được sự chú ý của giới truyền thông,” ông Lott cho biết.
Ông nêu ra rằng một người mang súng trong một khu vực cấm súng ở tiểu bang Tennessee có thể bị phạt tù 6 năm. Hôm 27/03, kẻ sát nhân đã tấn công trường Covenant Presbyterian ở Nashville khiến 6 người thiệt mạng. Vì Tennessee là tiểu bang có án tử hình, nên ông Lott băn khoăn liệu [hình phạt] sáu năm tù sẽ có tác dụng răn đe đến mức nào.
“Dường như không có bất kỳ hình phạt nào dành cho những người này,” ông Lott nói.
Ông Grossman cho biết điều này không báo trước điều gì hay ho cả. Ông phỏng đoán rằng nếu không thực hiện biện pháp nào để giải quyết vấn đề này, thì những kẻ sát nhân hàng loạt sẽ chọn những mục tiêu khiến người ta còn kinh hoàng hơn nữa.
Nam Anh biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times