Ba Lan: Bức tường thành mới của NATO
Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ trông cậy vào một số đồng minh Âu Châu chủ chốt để củng cố liên minh NATO. Tây Đức là tiền tuyến của Liên minh Đại Tây Dương này, nơi có hàng trăm ngàn binh sĩ từ một số quốc gia của NATO. Anh quốc là hàng không mẫu hạm không thể bị nhấn chìm cho các oanh tạc cơ tầm trung của Hoa Kỳ. Ý và Tây Ban Nha cung cấp cơ sở hạ tầng trọng yếu cho Hải quân Hoa Kỳ.
Vậy còn Pháp? Vâng, họ cũng có mặt ở đó.
Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, biên giới của NATO đã được mở rộng hàng trăm dặm về phía đông sau khi một số quốc gia cộng sản cũ (và từng là các thành viên của Khối Hiệp ước Warsaw do Liên Xô lãnh đạo) gia nhập liên minh phương Tây này. Trước cuộc xâm lược Ukraine của Nga và thái độ thù địch mới của Moscow đối với phương Tây – đến mức họ đưa ra lời cảnh báo đe dọa rằng họ có thể muốn “đẩy lùi các đường biên giới đang đe dọa” Nga – thì tầm quan trọng chiến lược của “Bucharest Nine” (9 quốc gia NATO ở Đông Âu) đã được mức đánh giá mới cao hơn.
Trong số tất cả những quốc gia này, Ba Lan đã nổi lên như thành lũy phòng thủ trọng yếu của NATO ở phía đông, vì ở diện tích và vì quốc gia này đã rất nỗ lực để gia cường sức mạnh quân sự.
Ba Lan là quốc gia lớn thứ năm trong Liên minh Âu Châu (EU) về mặt dân số và có diện tích lớn hàng thứ bảy. Họ cũng có GDP đứng hàng thứ sáu trong EU.
Ba Lan đã tiến hành tái cơ cấu kinh tế trên quy mô lớn ngay sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, một nỗ lực cải cách khắc nghiệt được gọi là “vụ nổ lớn.” Tác động ngắn hạn của nỗ lực này là cắt giảm việc làm, lạm phát, và đồng zloty tiền tệ của Ba Lan mất giá thảm hại. Tuy nhiên, đất nước này đã nhanh chóng phục hồi và trở thành một nền kinh tế thị trường phát triển vững mạnh.
Gần như về mọi khía cạnh, Ba Lan là một “quốc gia lớn” ở châu Âu và đang nỗ lực để có được ảnh hưởng với vị thế này. Đặc biệt, họ đang nỗ lực hết sức để trở thành đối tác quân sự tin tưởng của Mỹ ở phía đông NATO.
Trước hết, Warsaw đang cung cấp sự trợ giúp vô giá cho Ukraine. Đây là nhà cung cấp viện trợ lớn thứ ba của Kyiv, chiếm gần 0.9% GDP của Ba Lan. Họ đã tiếp nhận hàng ngàn người tị nạn từ Ukraine và gần như làm cạn kiệt kho vũ khí của mình để giúp tái thiết vũ trang cho quân đội Ukraine.
Có lẽ quan trọng hơn là Ba Lan cam kết đưa quân đội của mình trở thành một trong những lực lượng mạnh nhất trong NATO. Ngay cả trước chiến tranh Nga-Ukraine, Warsaw thường xuyên chi ít nhất 2% GDP cho quốc phòng, là một trong số ít các quốc gia NATO thực hiện việc này. Vào năm 2021, con số này tương đương với 13.7 tỷ USD.
Quân đội Ba Lan là một trong những quân đội lớn nhất trong NATO, gồm khoảng 164,000 binh sĩ và thêm 30,000 binh sĩ trong một lực lượng bảo vệ lãnh thổ được thành lập gần đây. Ba Lan cũng là nơi đồn trú của 11,000 binh sĩ Hoa Kỳ.
Ba Lan đã vượt mặt Đức về chi tiêu quốc phòng tính theo tỷ lệ phần trăm GDP và chi tiêu bình quân đầu người cho quốc phòng. Họ cũng vận hành nhiều xe tăng và bích kích pháo hơn cả Đức.
Cuộc xâm lược Ukraine của Nga đã thúc đẩy sự gia cường quân sự của Ba Lan. Warsaw tăng chi tiêu quốc phòng vào năm 2023 lên 22 tỷ USD. Ngoài ra, chính phủ dự trù bổ sung 7 tỷ USD vào một quỹ trợ giúp đặc biệt cho quân đội. Điều này sẽ nâng tổng chi tiêu quốc phòng lên ít nhất 3% GDP.
Warsaw dự định mở rộng quy mô quân đội lên 300,000 binh sĩ vào năm 2035 và tăng chi tiêu quốc phòng lên 5% GDP.
Sự bùng nổ chi tiêu quốc phòng này cũng đang tài trợ cho việc thay đổi cấu trúc tài chính lớn đối với các lực lượng vũ trang Ba Lan.
Ngay cả trước khi Nga xâm lược Ukraine, Warsaw đã ký một thỏa thuận trị giá 4.75 tỷ USD để mua 250 xe tăng M1A2 Abrams. Tiếp đó, theo sau thỏa thuận này là một thỏa thuận trị giá 1.4 tỷ dollar để mua 116 chiếc M1A1 cũ hơn. Ba Lan cũng muốn mua Hệ thống Hỏa tiễn Pháo binh Cơ động Cao (HIMARS), một thỏa thuận có thể trị giá lên đến 10 tỷ USD.
Ba Lan cũng hợp tác với Nam Hàn nhiều hơn để mua vũ khí. Năm ngoái, Warsaw đã ký nhiều hợp đồng với Seoul để bán 180 xe tăng K2, 212 bích kích pháo K9, 300 bệ phóng hỏa tiễn K239 Chunmoo, và 48 phản lực cơ tấn công mặt đất FA-50. Tổng cộng, các giao dịch này trị giá ít nhất 9 tỷ USD.
Các kế hoạch nhập cảng khác bao gồm 96 trực thăng chiến đấu tấn công AH-64 Apache và 32 chiếc F-35, khiến Ba Lan trở thành quốc gia thuộc khối Xô Viết cũ đầu tiên mua chiến đấu cơ thế hệ thứ năm này.
Ba Lan cũng sử dụng việc gia tăng chi tiêu quốc phòng để hồi sinh ngành công nghiệp vũ khí trong nước. Họ dự trù sản xuất theo giấy phép hơn 800 xe tăng K2 của Nam Hàn và một loạt thiết vận xa chiến đấu mới với sự hợp tác của Phần Lan. Ba Lan cũng tự sản xuất trực thăng và vũ khí chống tăng dẫn đường.
Warsaw cho biết: “Chúng tôi cố gắng để lực lượng đánh bộ của Ba Lan trở thành lực lượng mạnh nhất ở châu Âu.”
Câu hỏi quan trọng là làm thế nào mà Warsaw có thể chi trả cho tất cả các khoản chi tiêu quốc phòng bổ sung này, đặc biệt là việc nhập cảng khí tài trị giá hàng tỷ dollar.
Hoa Kỳ đang cung cấp một số viện trợ để bồi hoàn cho Ba Lan vì đã cung cấp vũ khí dự trữ quân sự cho Ukraine. Tuy nhiên, đây chỉ là khoản chi 289 triệu USD, còn quá xa để so với hàng tỷ dollar mà Warsaw cần để xây dựng quốc phòng.
Hơn nữa, chính phủ cánh hữu của Ba Lan (vốn bị cáo buộc làm sa sút nền dân chủ, chẳng hạn như làm suy yếu tính độc lập của cơ quan tư pháp và hạn chế quyền tự do báo chí) đã khiến EU phải trì hoãn 37 tỷ USD viện trợ và các khoản vay liên quan đến một quỹ phục hồi sau đại dịch COVID-19.
Đấu đá nội bộ trong hệ thống chính trị chia rẽ của Ba Lan cũng khiến Warsaw khó đạt được sự đồng thuận trong nhiều khía cạnh của chính sách quốc gia, dẫn đến việc Ba Lan tiếp tục “không đạt được thành tựu như mong đợi” cả trong NATO lẫn EU.
Đồng thời, Ba Lan chú trọng thống nhất quanh mục tiêu củng cố lực lượng vũ trang của mình. Bằng cách biến quốc gia mình trở thành công cụ của NATO, đặc biệt là Hoa Kỳ, họ đang củng cố vai trò là bức tường thành của Liên minh này ở phía đông.
Doanh Doanh biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times