Thiên cổ anh hùng Hàn Tín (P.5): Trận chiến Bối Thủy
Nhân vật anh hùng thiên cổ trong văn hóa Thần truyền 5,000 năm huy hoàng – Binh Tiên chiến Thần Hàn Tín
Phần 1: Hàn Tín – Lòng ôm chí lớn, ẩn thân giấu tài
Phần 2: Hàn Tín – Tài năng không gặp thời
Phần 3: Hàn Tín – Trong tuyệt vọng tìm thấy lối thoát
Phần 4: Hàn Tín – Một tay gây dựng cơ đồ nhà Hán
4. Tập kích bất ngờ phá Ngụy
Sau chiến thắng Bành Thành, Hạng Vũ coi Lưu Bang là mục tiêu chính của mình. Ông điều chỉnh binh lực, liên hợp với các nước như Tề, Triệu, Ngụy và cùng với Cửu Giang Vương Anh Bố chuẩn bị đánh từ hai mặt Bắc Nam, và tiến thẳng đến Quan Trung. Đúng lúc này, Ngụy Vương Báo vốn là thuộc hạ Lưu Bang, thấy Lưu Bang yếu thế, nên có ý định đào phản, cùng liên thủ với Hạng Vũ lên kế hoạch tấn công Lưu Bang từ một phía.
Lãnh địa của Ngụy Vương ở phía đông Hoàng Hà, tây tiến thì uy hiếp Quan Trung, nam hạ thì có thể cắt đứt liên hệ giữa Quan Trung và Huỳnh Dương, vì vậy trước trận chiến quyết định với Hạng Vũ, Lưu Bang phải giải quyết vấn đề của Ngụy Vương Báo. Đầu tiên ông cử biện sĩ Lệ Thực Kỳ đi thuyết khách. Ngụy Vương Báo hàng ngày vô cùng chán ghét đối với thái độ ngạo mạn và thô lỗ của Lưu Bang, nên ông không muốn gặp sứ giả, vì vậy Lệ Thực Kỳ không được việc đành trở về. Lưu Bang bất đắc dĩ phải tái trọng dụng Hàn Tín một lần nữa, phong ông ta làm Tả thừa tướng kiêm Đại tướng quân, cùng Tào Tham và Quán Anh xuất quân đánh Ngụy.
Ngụy Vương đã bố trí binh mạnh phòng thủ dọc theo bờ sông Hoàng Hà, canh phòng nghiêm mật, không có kẽ hở nào. Vấn đề đầu tiên Hàn Tín phải đối mặt là làm thế nào để vượt sông Hoàng Hà. Quân Hán chỉ có trong tay trăm chiến thuyền cũ kỹ, nếu cố ép vượt sông thì thương vong rất lớn, thắng bại khó lường. Hàn Tín đã dùng diệu kế “trần thuyền Bồ Bản, Mộc Anh độ quân.” Ông chia binh thành hai đường, một sáng và một tối. Nhóm sáng là nhóm tiến về phía Bồ Bản, do Quán Anh dẫn đầu, dùng một vạn binh mã và hơn một trăm chiếc thuyền dàn trận trên bờ đối diện cửa ải vào Tấn, bày ra thế trận muốn vượt sông. Ngụy Vương Báo nhìn thấy quân Hán bày thuyền ở Bồ Bản, ông ta lập tức thay đổi bố trí, liền điều động rất nhiều binh mã từ nơi khác đến, bày thế trận sẵn sàng chờ đợi.
Đội quân thứ hai âm thầm hành động, đi về phía bắc một trăm dặm là Hạ Dương (nay là Hàn thành tỉnh Thiểm Tây). Bến sông cổ Hạ Dương là một bến đẹp nhất ở giữa từ ải Long Môn đến ải Bồ Tân, mặt sông khoáng đạt, bờ thấp nước lặng, dễ dàng đi thuyền, lại có vùng đất phẳng 20 dặm, thuận tiện cho việc tập kết quân đội. Sau khi đến Hạ Dương, Hàn Tín không dùng thuyền để qua sông, mà cho tìm kiếm những đồ chứa [nước…], chặt cây gỗ, dùng gỗ kẹp các hũ sành lại, dùng dây thừng cố định lại, tạo thành bè gỗ.
Việc vượt sông thì đợi cho đến khi một số binh lính địch ở bờ đối diện được điều động đến Bồ Bản, không làm kinh động đến quân Ngụy, sau khi vượt sông thì tiến thẳng đến Ấp An và nhanh chóng công chiếm được Ấp An
Ấp An là một trọng điểm quân sự, Ngụy Vương Báo không thể không điều quân về ứng cứu. Ngay khi quân Ngụy di tản khỏi Bồ Bản, quân Hán lập tức lên thuyền qua sông và nhanh chóng chiếm Bồ Bản. Hai cánh quân Hán lần lượt vượt sông đánh giáp công với quân của Ngụy Vương Báo ở giữa Bồ Bản và Ấp An. Dưới thành Ấp An, quân Ngụy đại bại bỏ chạy tán loạn, Tào Tham gấp rút truy đuổi. Ngụy quân chạy đến Đông Viên và Tào Tham theo dấu vết truy đuổi theo, tất cả tàn quân của Ngụy đã bị tiêu diệt, Ngụy Vương Báo bị bắt sống. Sau đó, Hàn Tín lại tiến lên phía bắc để chiếm Bình Dương, một lần là bình định toàn bộ lãnh thổ của Ngụy, trước sau không đến một tháng, ông đã tiêu diệt được nước Ngụy hùng mạnh.
Từ đó, mọi người gọi bến cổ Hạ Dương là “bến Mộc Anh” (chữ Anh ở đây nghĩa là bình nước) hoặc “bến Hoài Âm”
Chiến dịch “Mộc Anh độ hà” (Mộc Anh qua sông) cũng là kinh điển trong lịch sử chiến tranh, không chỉ là phương thức qua sông đặc biệt, mà trình tự chiến lược của nó còn là kỳ diệu hơn. Trước tiên “dương đông kích tây,” đánh tây xong rồi lại đánh đông, khiến cho đối thủ lâm vào tình thế bị đánh bị động. Nhìn chung mà nói, một mưu kế nào đó mà đã thành công rồi, thì người ta sẽ đề phòng. Do đó mà diễn lại kế cũ thì độ khó rất lớn. Nhưng nhà quân sự kỳ tài Hàn Tín có thể hai lần thực hiện kế “Ám độ Trần Thương” (Chọn con đường, cách thức tấn công mà không ai nghĩ tới), có thể nói là trác tuyệt bậc nhất.
Việc Hàn Tín bình Ngụy đã giải tỏa được mối đe sát sườn cho quân Hán, làm cho hậu phương của Quan Trung càng vững chắc hơn, và khiến cuộc tấn công vào cánh phải của Hạng Vũ trở nên bất khả thi, giảm bớt áp lực trên chiến trường Huỳnh Dương. Điều đáng nói là Hàn Tín luôn chú trọng đến việc phá binh làm chủ, tiêu diệt chủ lực của địch chứ không đơn thuần là chiếm thành trì, cho nên địa bàn mà ông giành được nhìn chung rất ổn định, sẽ không có chuyện được rồi lại mất.
Ngay khi nước Ngụy bị tiêu diệt, Lưu Bang lập tức phái người đến trước đưa đi toàn bộ binh lính tinh nhuệ của Ngụy bị bắt làm tù binh cùng số lượng lớn chiến lợi phẩm thu được. Với danh nghĩa hỗ trợ chiến trường Huỳnh Dương, nhưng nguyên nhân quan trọng hơn chính là kiềm chế thực lực của Hàn Tín.
5. Khéo léo thu phục Triệu Yên
Hàn Tín đánh bại Ngụy và nhổ được cái gai đâm sau lưng quân Hán, nhưng ở khu vực phía bắc sông Hoàng Hà thì các nước chư hầu như nước Đại, nước Triệu, nước Yên, nước Tề hùng cứ một phương, cùng với nước Sở chống lại quân Hán. Quân Hán bất lợi về thế trận phía chính diện, Huỳnh Dương đã hai lần thất thủ. Thế trận giằng co gian khổ khiến Lưu Bang đã có lần muốn từ bỏ Huỳnh Dương.
Hàn Tín phân tích tình hình khách quan và chủ động xin lệnh mang ba vạn binh mã lên phía bắc để thảo phạt Yên, Triệu, Đại, Tề và cắt đứt đường vận chuyển lương thảo giữa bọn họ và nước Sở. Nếu như thu phục được các nước chư hầu này, quân Hán sẽ tạo thành một cuộc tấn công hai mặt vào quân Sở. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Trung Quốc đề xuất một chính sách chiến lược phòng thủ chính diện lâu dài kết hợp tấn công bên sườn. Lưu Bang nhất thời đã không thể lý giải được chiến lược cao siêu này, nhưng cũng không có lý do gì để phản đối nên liền gật đầu đồng ý. Ông quy nước Ngụy thành quận Hà Đông và cho Trương Nhĩ làm trợ thủ cho Hàn Tín, cũng là để giám sát cử động của Hàn Tín.
Vào tháng chín nhuận năm thứ hai của Hán Cao Tổ, Hàn Tín dẫn binh lên phía bắc. Mục tiêu tấn công đầu tiên của ông là nước Đại. Một năm trước, Lưu Bang yêu cầu nước Triệu xuất binh tấn công Hạng Vũ, và Trần Dư đưa ra điều kiện giết chết Trương Nhĩ thì sẽ đồng ý xuất binh. Lưu Bang liền tìm một người giống Trương Nhĩ và giết chết, lừa được Trần Dư xuất quân trợ chiến. Sau đó, Trần Dư phát hiện mình đã bị lừa liền phản bội lại Lưu Bang. Khi đó, Đại vương Trần Dư không ở nước Đại, mà chạy đến nước Triệu làm tướng quốc, giúp Triệu Vương điều hành đất nước, việc chính sự của nước Đại do tướng quốc Hạ Thuyết làm thay. Nước Đại là nước nhỏ binh yếu, không chịu nổi một trận. Hàn Tín tức tốc trực diện tấn công đánh bại quân Đại, bắt sống Hạ Thuyết và hạ xong nước Đại.
Nhưng nước Triệu và nước Đại lại là một thể, nước có thực lực chính là Triệu. Để bảo toàn chiến thắng, tất phải diệt Triệu. Lúc này, Lưu Bang đã cử người đi tiếp nhận quân lính để bổ sung cho nhu cầu của chiến trường Huỳnh Dương. Lần này không chỉ có các tù binh bị bắt đi, mà rút củi đáy nồi nên cả đại tướng Tào Tham và cả đội quân của ông ta cũng được điều chuyển về Huỳnh Dương.
Hàn Tín không muốn đi nửa đường rồi lại phí công, bèn xin phép lập quân tại chỗ tiếp tục bắc tiến đánh Triệu, Lưu Bang khó lòng từ chối, bèn phân bổ một lượng quân nhỏ cho Hàn Tín. Tuy nhiên, đợi khi Hàn Tín tổ chức xong binh mã của mình, thì đã bỏ lỡ cơ hội chiến đấu tốt nhất rồi, và quân Triệu đã bài binh phòng thủ, sẵn sàng đợi trận.
Vùng đất mà nước Triệu chiếm giữ rất dễ phòng thủ và khó bị tấn công. Dãy núi Thái Hành cao lớn và hiểm trở là một bức thành che chở tự nhiên. Lối duy nhất vào nước Triệu là cửa ải Tỉnh Hình, là một trong tám cửa ải nhỏ hẹp của dãy núi Thái Hành. Nơi đây là hẻm núi lớn, kẹp giữa vách núi sừng sững hai bên, con đường hẹp, xe không thể đi song song, ngựa không thể xếp hàng chạy, một người giữ ải, vạn người không thể qua. Để đi qua hẻm núi lớn này, đội quân phải xếp thành một hàng dài, từ đầu đến cuối họ không thể ứng cứu nhau. Chỉ cần quân Triệu đặt một đội quân yếu ớt trấn giữ ở lối ra đầu kia, kẻ địch bên ngoài sẽ khó có thể xâm nhập vào đất Triệu. Hơn nữa, còn có một con sông chảy xiết ở lối ra của cửa Tỉnh Hình, điều này cho thấy rằng sau khi vào đất Triệu rồi, thì muốn rút lui từ cửa Tỉnh Hình ra cũng không hề dễ dàng.
Trần Dư lập kế hoạch một mẻ hốt gọn quân của Hàn Tín, nên không hề đưa quân đến trấn giữ cửa ải, mà tập trung đại quân hai mươi vạn binh ở hơi xa phía đông của cửa ải, bày sẵn thế trận chờ quân địch, đợi quân của Hàn Tín hoàn toàn vượt qua cửa Tỉnh Hình rồi sẽ lấy thế mạnh của binh lực tiêu diệt toàn bộ quân Hán. Một kế hoạch hoàn hảo như vậy, đã bị một cao nhân phát hiện ra chỗ sơ hở. Người này chính là thuộc hạ của Trần Dư, Quảng Vũ Quân Lý Tả Xa (cháu của Lý Mục).
Lý Tả Xa cho rằng Hàn Tín một đường thừa thắng mà đến nên khí thế là không thể ngăn cản. Có điều, “Vận lương ngàn dặm, quân sĩ có dáng đói, đợi hái củi cắt cỏ mà nấu ăn, lính tráng không được ăn no” (Sử ký Hoài Âm Hầu liệt truyện). Ý là cung cấp lương thực từ xa xôi ngàn dặm, binh sĩ tất phải chịu đói, lại phải chặt củi nấu cơm, lính tráng chắc chắn không được ăn no.
Đây chính là nhược điểm của quân Hán. Lối đi ở cửa ải Tỉnh Hình nhỏ hẹp, lương thảo cho quân Hán sẽ tụt lại phía sau. Nếu như bố trí binh mã từ đường nhỏ cắt đứt lương thảo, đợi quân đội Hàn Tín đi qua cửa Tỉnh Hình, lại phái quân giữ chặt cửa ải, không cho binh mã rút lui, thì quân Hán sẽ rơi vào tình thế lưỡng nan, tiến không vào được Triệu, lùi không thể quay về. Không đầy mười ngày nữa, quân Hán sẽ không cần tấn công mà tự phá. Tuy nhiên, Trần Dư đang tán thưởng lý niệm cho rằng “Nghĩa binh không dùng mưu gian kế lạ” (“Sử ký, Hoài Âm Hầu liệt truyện,”) và thế là đề nghị của Lý Tả Xa đã bị gạt sang một bên.
Hàn Tín khi biết chuyện này, trong lòng rất vui, liền lập tức bố trí hành động. Vào lúc nửa đêm, sai hai nghìn khinh kỵ mang theo cờ đỏ của quân Hán đến ẩn nấp gần doanh trại quân Triệu, lại lệnh cho quân sĩ còn lại ăn sáng trước, xong chuẩn bị xuất phát, và còn dặn mọi người sau khi đánh bại quân Triệu sẽ lại ăn sáng tiếp.
Nghe mệnh lệnh của đại tướng quân, quân sĩ ai nấy đều ngơ ngác, quân Hán lúc đó chỉ có ba vạn người ngựa, làm sao có thể đánh bại 20 vạn quân Triệu? Hơn nữa còn nói đánh nhau xong sẽ lại ăn sáng! Đại tướng quân chắc không nói trong mơ chứ?
Hàn Tín bỏ qua những ánh mắt bán tín bán nghi của các tướng sĩ, ông chỉ huy một vạn binh lính tiến vào cửa ải Tỉnh Hình và đóng trại quay lưng ra sông (nên còn gọi là trận Bối Thủy). Ông đã nhìn thấu chiến lược của Trần Dư là quét sạch quân Hán trong một trận, vì vậy ông ta sẽ không ra tay nếu không thấy toàn bộ quân Hán. Tình hình quả nhiên đúng như dự đoán của Hàn Tín, một vạn binh sĩ đã vào vị trí một cách êm đẹp.
Sau khi bình minh, Hàn Tín rầm rộ tiến vào cửa Tỉnh Hình, bài binh bố trận bên sông, sau đó hướng vào quân Triệu khiêu chiến. Trần Dư thấy quân Hán ít người, bản thân mình lại có ưu thế về địa hình dựa núi nhìn sông nên dẫn quân tinh nhuệ xông ra. Hai bên giao chiến một lúc, Hàn Tín giả vờ thua chạy, trống trận và cờ cũng không kịp mang theo, vứt đầy cả dọc đường. Trần Dư nhìn thấy, càng cảm thấy nắm chắc phần thắng, liền hạ lệnh cho cả doanh trại tấn công, bắt sống Hàn Tín. Thế là hai nghìn quân Hán nằm mai phục gần doanh trại quân Triệu thừa cơ xông vào, thay hết cờ bằng cờ đỏ của quân Hán.
Bên này Hàn Tín và một vạn binh sĩ bên sông hợp lại ra sức đánh lại sự truy đuổi của quân Triệu. Vì không còn đường rút lui, nên quân Hán liều chết chống trả. Hai bên chém giết hơn nửa ngày, mà vẫn không thắng bại. quân Triệu thấy đánh mãi không thắng, định thu quân về trại. Quay đầu nhìn lại, thấy trong doanh trại đều phấp phới lá cờ của quân Hán, cho rằng quân Hán đã chiếm doanh trại của mình, bỗng chốc lòng quân tan rã. Thế trận đại loạn, quân sĩ chạy trốn khắp nơi. Lúc này, quân chủ lực của quân Hán vốn đã rút lui ra bờ sông quay đầu phản công lại, cùng với hai nghìn binh sĩ thừa cơ hai mặt giáp công, quân Triệu đại bại. Trần Dư chết trận, Triệu Vương là Yết và Lý Tả Xa bị bắt sống. Lãnh thổ nước Triệu cũng bị quân Hán chiếm đóng.
Sau trận chiến, các tướng sĩ hỏi Hàn Tín, trong binh thư nói rằng bố trí quân nên “hữu bội (bối) sơn lăng, tiền tả thủy trạch,” điều này có nghĩa là nên bố trí phía sau bên phải dựa vào núi, phía trước là thủy, mà tướng quân lại hạ lệnh bối thủy bày trận, tuy đã giành được chiến thắng, nhưng rốt cục là đạo lý gì?
Hàn Tín cười nói: “Trong binh thư có câu: ‘Hãm chi tử địa nhi hậu sanh, trí chi vong địa nhi hậu tồn’(đặt mình vào chỗ chết thì sẽ được sống), đội quân này là đội quân mới, vì vậy chỉ có thể trước tiên đưa họ vào nơi phải chết, để mọi người đều vì sự sinh tồn của riêng mình mà chiến đấu. Nếu không, khi vừa khai chiến, họ sẽ mạnh ai nấy chạy, đội hình tan rã.” Khi đó mọi người mới biết Hàn Tín là một cao thủ dùng binh biết kết hợp chiêu mới lạ với chính thống áp dụng linh hoạt. Đây chính là nguồn gốc của câu thành ngữ “Bối thủy Nhất chiến.”
Hàn Tín vô cùng khâm phục kiến thức của Quảng Vũ Quân Lý Tả Xa. Khi Lý Tả Xa bị đưa đến doanh trại quân Hán, Hàn Tín đã đích thân cởi trói cho ông và xin tha tội, rồi mời ông ngồi hướng đông, còn mình thì giống như học trò ngồi ở phía tây hướng về phía ông ta hỏi về sách lược tấn công nước Yên và nước Tề. Lý Tả Xa khiêm nhường nói: “‘Một tướng đã bại trận, không được bàn về dũng cảm. Một đại phu đã mất nước, không có tư cách mưu tính nữa.’ Tôi là tù nhân trong tay ông, có tư cách gì để bàn mưu kế quân sự với ông?”
Hàn Tín vội trả lời: “Vào thời Xuân Thu, Bách Lý Hề trước làm quan nước Ngu, về sau nước Ngu bị diệt, ông được Tần Mục Công dùng năm tấm da dê chuộc tội, trở thành quan Đại phu nước Tần, giúp Tần Mục Công thực hiện được mưu lược vĩ đại là bá chủ chư hầu. Cũng không phải Bách Lý Hề ngu muội khi ở bên nước Ngu, và trở thành tài năng khi đến nước Tần, cũng không phải ông ta không hết mình vì nước Ngu và tận tâm hơn với nước Tần, mà vì quân vương của nước Ngu không muốn nghe theo lời khuyên của ông ta. Nhưng Tần Mục Công lại tiếp thu những diệu kế của ông ta. Nếu như Trần Dư nghe theo kế sách của ông, thì tôi, Hàn Tín này đã trở thành tù nhân rồi. Chính vì ông ta không sử dụng kế sách của ông, nên ông ta mới thua tôi, và tôi mới có cơ hội để xin lời ông chỉ bảo.”
Lý Tả Xa thấy Hàn Tín nói thật lòng thật dạ như vậy thì rất cảm động, phân tích kỹ càng tình thế hiện tại: Kẻ trí lo một nghìn cái, ắt có một cái hỏng, kẻ ngu lo một nghìn cái, ắt có một cái được. Thành An Quân Trần Dư cũng là người đánh trận từ lâu, lần này lại cho rằng có kế sách vẹn toàn, một khi lỡ tay nên kết quả là quân bại thân vong. Tướng quân, ông đã bắt được Ngụy Vương Báo làm tù binh và bắt sống được Hạ Thuyết, một trận mà hạ được Tỉnh Hình, trong một ngày tiêu diệt được 20 vạn quân tinh nhuệ của nước Triệu, vang danh trong nước, uy chấn thiên hạ. Đây là lợi thế của tướng quân.
Tuy nhiên, các tướng do tướng thống soái cũng là đội quân mệt mỏi rồi, e rằng khó đánh liên tục, đây chính là thế yếu của tướng quân. Nếu chúng ta để cho đội quân kiệt quệ đi tấn công nước Yên đang thành vững quân mạnh thì khó có thể đánh nhanh thắng nhanh. Còn như đánh nhau dài ngày mà cũng không nắm chắc phần thắng, tinh thần binh lính sẽ không tránh khỏi thất vọng, lương thảo cung cấp cũng sẽ gặp vấn đề.
Một nước Yên nhỏ bé mà đánh lâu không bị hạ, thì nước Tề lớn mạnh hơn nước Yên càng không dễ khuất phục. Cách tốt nhất là án binh bất động, trước hết phải vỗ về nước Triệu, khao thưởng ba quân, nghỉ ngơi dưỡng sức. Đợi sau khi hai nước Triệu, Đại ổn định, thì đưa quân tiến lên phía bắc, thẳng tiến đến nước Yên. Khi đại quân áp sát biên giới, thì cử người giỏi thuyết khách ở phía trước binh sĩ kêu gọi họ đầu hàng, nói rõ thiệt hơn, với danh tiếng hiển hách của tướng quân, nước Yên không dám không đầu hàng. Sau đó, đem uy thế đó để đi thuyết phục nước Tề, nước Tề chắc chắn sẽ xem chiều gió mà quy thuận.Hàn Tín nghe rồi trong bụng tấm tắc tán thưởng, liền lập tức sai sứ sang nước Yên, đưa thư cho vua nước Yên, nói rõ lợi hại khuyên nên quy hàng. Yên Vương khiếp sợ trước uy danh của Hàn Tín, quả nhiên nộp tiền và đầu hàng, bỏ Sở theo Hán, tạo thành câu “thước thư hàng Yên” được thiên cổ ca ngợi. (sách ngày xưa dùng thanh tre dài nên gọi thước)
6. Rạng đông đoạt ấn tướng
Hàn Tín sau khi giành được chiến thắng liên tiếp ở phía bắc, toàn bộ hình thế chiến trường bắt đầu có lợi cho quân Hán, Hạng Vũ trở nên rất căng thẳng và thường cho quân quấy rối biên giới nước Yên và nước Triệu. Hàn Tín bôn ba ngược xuôi, đánh đuổi quân Sở, vỗ về dân chúng, đồng thời huấn luyện chiêu mộ tân binh, để hỗ trợ cho chiến trường chính diện của Lưu Bang. Cũng trong lúc đó, mấy nước Triệu, Đại, có lúc phát sinh chiến sự lẻ tẻ. Để tiện quản lý, Hàn Tín tiến cử với Lưu Bang xin lập Trương Nhĩ làm Triệu Vương. Thực ra, dựa vào công trạng của Hàn Tín, việc xin tự phong làm vương cũng là hợp lý. Trương Nhĩ là bạn cũ của Lưu Bang nên đã chiếm được lòng tin của ông, hơn nữa Lưu Bang lại đang bị Hạng Vũ lấn át không thở nổi, cho nên đã vui vẻ đồng ý với đề nghị của Hàn Tín.
Trong khi Hàn Tín đánh Đại phá Triệu, Hạng Vũ bắt đầu một cuộc phản công quy mô lớn chống lại Lưu Bang. Đương nhiên, Lưu Bang không phải là đối thủ của Hạng Vũ, quân Sở đã rất thuận lợi giành lại tất cả các thành trì của quân Hán ở phía đông Huỳnh Dương, cắt đứt đường lương thực của Huỳnh Dương, và bao vây Huỳnh Dương đến mức con kiến không lọt. Lần bao vây này là hơn một năm.
Lưu Bang đánh trận không giỏi, nhưng giữ mạng thì lại có tài. Đầu tiên, ông ta dùng kế khuyên Anh Bố phản Hạng Vũ, và sau đó đưa cho Trần Bình bốn vạn lượng vàng để ly gián mối quan hệ giữa Hạng Vũ và các tướng Chung Ly Muội, Long Thư…, khiến Phạm Tăng, mưu sĩ thân tín nhất của Hạng Vũ tức giận bỏ đi, nhưng cuộc bao vây ở Huỳnh Dương vẫn không giải thoát được. Cuối cùng, Lưu Bang dùng kế trá hàng, dùng tướng quân Kỷ Tín đóng giả là bản thân, còn mình thì lợi dụng lúc hỗn loạn mà chạy trốn.
Hạng Vũ sau khi giành lại được Huỳnh Dương đã thừa thắng xông lên và giành lại được thị trấn quan trọng Thành Phụ. Lưu Bang thì như con rùa rụt cổ ở phía nam Vũ Quan, chỉ thủ mà không chiến, đồng thời nhiều lần sai Bành Việt đến quấy rối hậu phương của Hạng Vũ. Bành Việt đánh mãi đến vùng phụ cận của Bành Thành, trực tiếp uy hiếp kinh đô của nước Sở, Hạng Vũ bị ép đành ngàn dặm đưa quân hồi kinh, nên áp lực của Lưu Bang tạm thời giảm bớt, nhân cơ hội này chiếm lại được Thành Phụ và Huỳnh Dương. Hạng Vũ sau khi đánh bại Bành Việt, liền đưa quân trở về Huỳnh Dương tấn công Lưu Bang, chưa đầy một tháng sau, liên tiếp hạ được Huỳnh Dương và Thành Phụ. Trước khi Thành Phụ bị phá, Lưu Bang và Hạ Hầu Anh đã trốn thoát.
Lưu Bang thế cùng lực tận bị Hạng Vũ đánh cho sợ hãi, nhưng trốn đi đâu mới là an toàn? Ông nghĩ đến Hàn Tín đang đóng quân ở Tu Vũ.
Sau khi Hàn Tín thu phục được nước Yên, kế hoạch là tiến đến nước Tề. Vì Lưu Bang liên tục thua trận trên chiến trường trực diện và chạy về phía bắc, Hàn Tín vì thuận tiện cho việc huấn luyện binh sĩ chi viện cho Lưu Bang nên đã chọn Tu Vũ ở cực nam đất Ngụy (nay là Tiểu Tu Vũ thuộc huyện Hoạch Gia, tỉnh Hà Nam) làm căn cứ địa để tiện luyện binh chi viện Lưu Bang, cũng gần chiến trường của Lưu Bang hơn.
Nghĩ đến Hàn Tín, tâm tình của Lưu Bang vô cùng phức tạp. Một mặt nhờ Hàn Tín chống đỡ cục diện, ông mới có thể chết đi sống lại hết lần này đến lần khác, thật đúng là vô cùng may mắn. Mặt khác, Hàn Tín chỉ dựa vào ba vạn binh mã tầm thường lại chế phục được các chư hầu phương Bắc, còn ông thân là Hán vương lại trận thắng trận thua, thật không biết để mặt mũi vào đâu. Bây giờ Hàn Tín đã có hơn mười vạn binh mã, Lưu Bang chỉ còn lại một người một xe, ông muốn có được quân tiếp viện nhưng lại không muốn nợ ân tình của Hàn Tín. Lưu Bang trầm ngâm suy nghĩ, trù tính ra một màn kịch “Rạng đông đoạt ấn tướng.”
Tháng sáu năm thứ tư Hán Cao Tổ (tức năm 203 TCN), Lưu Bang cùng với Hạ Hầu Anh nhếch nhác trốn chạy từ Thành Cao, suốt quãng đường ăn gió nằm sương đã đến được Tu Vũ, nơi Hàn Tín đóng quân. Nhưng Lưu Bang với bản tính đa nghi ngờ vực, nên không vào doanh trại gặp mặt Hàn Tín, Trương Nhĩ, mà âm thầm lặng lẽ ở trong trạm dịch. Ngày hôm sau trời còn chưa sáng, nhân lúc Hàn Tín, Trương Nhĩ vẫn còn đang ngủ say, Lưu Bang giả trang thành sứ giả của Hán vương lẻn vào trong trướng của Hàn Tín, lấy trộm binh phù, lệnh tiễn và tướng ấn của Hàn Tín, Trương Nhĩ, đoạt binh quyền của hai người họ vào trong tay mình. Lại triệu tập các tướng lĩnh khác, bố trí lại chức vị các tướng mới yên tâm đánh thức hai người Hàn Tín và Trương Nhĩ.
Hàn Tín và Trương Nhĩ vội vàng áo mũ ra tương kiến. Lưu Bang phong cho Hàn Tín là tướng quốc, chiêu mộ những thanh niên đất Triệu để huấn luyện thành một đội quân mới tấn công nước Tề; lệnh cho Trương Nhĩ quản lý đất Triệu và đất Đại, còn mình thì đưa đại quân của Hàn Tín đi giải cứu chiến trường chính diện. Dựa vào quân đội của Hàn Tín và sự hỗ trợ của Bành Việt ở phía sau Hạng Vũ, Lưu Bang cuối cùng đã giành lại được Huỳnh Dương và Thành Phụ.
(Đón xem Phần 6: Hàn Tín – Một lòng trung thành)
Do nhóm nghiên cứu về các nhân vật thiên cổ anh hùng của 5,000 năm văn hóa Thần truyền thực hiện
Sương Sương biên dịch
Tham khảo bản gốc từ Epoch Times tiếng Hoa
Xem thêm: