Vì sao bình tịnh thủy của Bồ Tát lại kỳ diệu đến vậy?
Bồ Tát Quan Âm thường cầm trên tay một chiếc bình tịnh thủy, bên trong cắm cành dương liễu. Vậy chiếc bình ấy kỳ diệu đến mức nào?
Truyện Tây Du Ký kể rằng, Quan Âm Bồ Tát đến Trường An tìm người đi lấy kinh, khi nhìn thấy Long Vương Kinh Hà đang quấy nhiễu vị hoàng đế nhà Đường, Bồ Tát liền rút cành dương liễu phẩy một cái đã đuổi được nghiệp long để cứu nguy cho Hoàng đế. Sau đó khi thầy trò Đường Tăng đến Ngũ Trang Quán, Ngộ Không đánh đổ cây nhân sâm, Bồ Tát lại dùng nước Cam Lộ trong bình để cứu sống cây. Sau này, khi cứu Đường Tăng và thu phục Hồng Hài Nhi, Bồ Tát cũng dùng nước Cam Lộ để dập tắt lửa.
Một cành liễu phất phơ mềm yếu, Bồ Tát phẩy nhẹ tay là có thể trừ được bách bệnh, đuổi được nghiệp long, dập tắt được lửa tam muội chân hỏa, lại có thể cứu sống cây Thần. Dương liễu, tịnh bình và nước Cam Lộ, vì sao lại kỳ diệu đến vậy?
Chúng ta hãy cùng trở lại cố sự ‘Ngộ Không hái trộm nhân sâm quả’ để tìm hiểu ý nghĩa của chiếc bình kỳ diệu này.
Nhân sâm là linh căn của trời đất
Truyện Tây Du Ký kể rằng, khi bốn thầy trò Đường Tăng đến đất Tây Ngưu Hạ Châu, trước mặt hiện ra núi Vạn Thọ, trên núi có Ngũ Trang đạo quán là nơi cư ngụ của Trấn Nguyên Tử – vị đại tiên mang thánh hiệu Dữ Thế Đồng Quân.
Trấn Nguyên Tử là ông tổ dòng địa tiên, tầng thứ vượt trên cả những bậc địa tiên khác như Phúc Lộc Thọ Tam Tinh, hay Lê Sơn Lão Mẫu. Trên cánh cửa dẫn vào Ngũ Trang quán có dán đôi câu đối, nói lên vị thế của Trấn Nguyên tiên tử: “Phủ thần tiên sống mãi không già/Nhà đạo sĩ thọ ngang trời đất.”
Trong Ngũ Trang quán có một cây tiên quý, sinh ra từ khi càn khôn còn hỗn độn, trời đất còn mờ mịt chưa phân, khắp tứ đại bộ châu trong thiên hạ thì chỉ có Ngũ Trang quán ở Tây Ngưu Hạ Châu là sản sinh ra cây ấy, có tên là “Vạn Thọ thảo hoàn đơn”, cũng gọi là “Nhân sâm quả”.
Nhân sâm quả bề ngoài trông rất giống đứa trẻ sơ sinh, cuống quả dính vào ngọn cây, chân tay đung đưa, đầu mặt gật gù, gió thổi qua kẽ lá nghe như tiếng trẻ kêu.
Vậy cây nhân sâm này quý hiếm như thế nào? Kể rằng:
“Giống cây này ba nghìn năm mới nở hoa, ba nghìn năm mới kết quả, lại ba nghìn năm nữa mới chín. Tính ra phải một vạn năm mới được ăn. Và trong một vạn năm ấy chỉ kết được ba mươi quả. Hình dáng quả này tựa đứa bé mới sinh chưa đầy ba ngày, tứ chi hoàn toàn, ngũ quan đủ cả. Ai có duyên được ngửi quả này một lần, thì sống lâu ba trăm sáu mươi tuổi; ăn một quả, sống mãi bốn vạn bảy nghìn năm”.
Thứ quả này quý hiếm như vậy, thế nên năm xưa khi Quyển Liêm đại tướng còn phục vụ bên cạnh Ngọc Hoàng Đại Đế, mỗi lần hộ vệ xa giá đến hội Bàn Đào thường thấy các vị tiên dâng nhân sâm quả chúc thọ Vương Mẫu. Quyển Liêm chỉ có thể trông thấy, mà chưa từng được ăn.
Mặc dù quý hiếm, nhưng nhân sâm quả lại tương khắc với ngũ hành: gặp Kim thì rụng, gặp Mộc thì khô, gặp Thủy thì hóa, gặp Hỏa thì héo, gặp Thổ thì nhập. Muốn hái quả thì phải dùng đồ kim khí quả mới rụng được, rụng rồi phải đựng trong một cái khay lót vải, bởi nếu không, hễ chạm vào đồ gỗ là quả khô ngay, dẫu ăn vào cũng vô ích, không thể kéo dài tuổi thọ được. Quả này gặp Hỏa là héo, sẽ vô dụng, gặp Thổ là chui vào đất, đất ấy cũng nhờ có quả này mà thọ bốn vạn bảy nghìn năm, cứng hơn cả sắt, dẫu có khoan có bổ thế nào cũng chẳng ăn thua gì. Có như thế, thì người nào may mắn được ăn quả này mới sống lâu muôn tuổi, bất lão trường sinh!
Tôn Ngộ Không non cao tìm thuốc
Khi bốn thầy trò bước vào Ngũ Trang quán, hai tiểu đồng của Trấn Nguyên Tử đã vâng lời dặn dò, mang hai trái nhân sâm tới mời Đường Tăng. Nhưng vì loại quả này trông tựa đứa trẻ mới sinh nên Đường Tăng nhất mực khước từ. Vừa nhìn thấy, Tam Tạng đã run rẩy sợ hãi, lùi xa ba thước và nói: “Lạ quá, lạ quá! Năm nay được mùa mà sao nơi đây thất bát đến nỗi phải ăn cả thịt người? Đứa trẻ này chưa đầy ba ngày mà mang cho bần tăng giải khát ư”? Dẫu hai tiểu đồng thuyết phục thế nào, Đường Tăng vẫn không tin, chỉ khăng khăng cho rằng: “Cha mẹ thai nghén, chịu đựng không biết bao nhiêu khổ cực mới sinh hạ được. Chưa đầy ba ngày trời mà đã mang ra, cho nó là “quả” ư”? Hai tiểu đồng không còn cách nào khác đành quay về phòng và chia nhau mỗi người một quả. Bí mật này chẳng may lọt vào tai Trư Bát Giới, động tới bản tính háu ăn của lão Trư. Bát Giới bèn xúi giục Ngộ Không hái trộm nhân sâm cho biết mùi biết vị. Sau khi phát hiện, hai tiểu đồng của Trấn Nguyên Tử đã buông lời nhục mạ cả bốn thầy trò, từ đó mà dẫn đến sự việc đáng tiếc: Tôn Ngộ Không đại náo Ngũ Trang quán, đạp đổ cây nhân sâm.
Bởi vì nhân sâm là tinh túy của đất trời, là cây thiêng sinh ra từ khai thiên tịch địa, cho nên khi đạp đổ cây, Ngộ Không đã phải vất vả đi khắp bốn phương trời để tìm thuốc giúp cây sống lại. Lần thứ nhất, Tôn Ngộ Không đến Bồng Lai tiên cảnh, gặp ba vị tiên ông là Thọ tinh, Phúc tinh, và Lộc tinh. Ba vị nói rằng, họ tuy là thần tiên nhưng về thứ bậc thì vẫn còn kém xa: “Thứ quả ấy ngửi được nó đã sống lâu ba trăm sáu mươi năm; ăn một quả, thọ tới bốn vạn bảy nghìn năm, tên là “Vạn thọ thảo hoàn đơn”. Đạo của chúng tôi còn kém xa! Họ đắc đạo rất dễ, thọ ngang trời đất. Chúng tôi còn phải dưỡng tinh, luyện khí, tồn thần, điều hòa long hổ, bồi bổ âm dương, tốn biết bao công sức, khắp cả thiên hạ chỉ có một cây thiêng ấy mà thôi. Trấn Nguyên tiên là tổ địa tiên, còn chúng tôi là tôn phái thần tiên. Nếu như đánh giết những con muông chạy chim bay, giống có vây có vỏ thì chỉ dùng viên đan lúa mạch của chúng tôi cũng có thể cứu sống được. Còn như cây nhân sâm ấy là giống cây tiên, chữa thế nào được? Không có thuốc, không có thuốc đâu”!
Lần thứ hai, Tôn Ngộ Không đến núi tiên Phương Trượng gặp Đông Hoa Đế Quân – vốn là vị Thần tiên “đệ nhất trong yên hà”, nhưng chỉ nhận được câu trả lời: “Tôi có một viên “Cửu chuyển Thái Ất hoàn đơn” có thể chữa mọi sinh linh ở thế gian, nhưng không thể chữa cho cây được. Cây là loại thổ mộc chi linh, được trời đất nuôi dưỡng thấm nhuần. Nếu là cây cỏ trần gian thì còn có thể chữa được, chứ núi Vạn Thọ là đất phúc của trời, quán Ngũ Trang là động trời của Hạ Châu, cây nhân sâm là giống linh căn từ lúc khai thiên lập địa, thì làm sao mà chữa được! Chịu thôi, không có thuốc gì đâu”!
Cứ như thế, cho đến lần thứ ba, Ngộ Không đến Doanh Châu hải đảo, thấy chín vị tiên râu tóc bạc phơ, vẻ mặt hồng hào thanh thoát đang uống rượu chơi cờ, hát cười vui vẻ dưới gốc cây ngọc bên sườn núi xanh. Nhưng cả chín vị tiên cũng chỉ lắc đầu: Không có thuốc chữa cây!
Như vậy, muốn cứu cây nhân sâm thì phải tìm được thứ thần dược vượt trên cả Phúc Lộc Thọ Tam Tinh, vượt trên cả cửu tiên, trên cả tầng thứ của các bậc thánh thần.
Nước Cam Lộ, Bồ Tát cứu cây
Sau khi rời Doanh Châu hải đảo, Ngộ Không sang thẳng Đông Dương đại hải. Trong giây lát đã thấy núi Lạc Già hiện ra trước mắt. Ngộ Không dừng mây hạ xuống, vào thẳng núi Phổ Đà, thấy Quan Âm Bồ Tát cùng với các vị thiên thần, Mộc Soa, Long Nữ đang giảng kinh thuyết Pháp trong rừng trúc tía. Vừa nghe Ngộ Không kể rõ sự tình, Bồ Tát đã quở trách: “Con khỉ kia, không biết hay dở gì cả! Cây nhân sâm ấy là một loại linh căn có từ ngày khai thiên lập địa. Trấn Nguyên Tử là ông tổ dòng địa tiên, ta cũng phải nhượng bộ ông ấy ba phần, tại sao nhà ngươi lại quật đổ cây của người ta”? Sau khi nghe Ngộ Không kể rõ sự tình, Bồ Tát lại nói tiếp: “Tại sao nhà ngươi không đến sớm gặp ta, lại còn ra đảo tìm tòi làm gì? Ta có bình nước Cam Lộ có thể chữa khỏi hết các loại cây tiên cỏ thánh”. Ngộ Không hỏi: “Đã được chứng nghiệm bao giờ chưa”? Bồ Tát nói: “Trước kia, Thái Thượng Lão Quân có đánh cuộc với ta: ngài bẻ một cành dương liễu của ta bỏ vào lò luyện đơn, đốt cháy khô xém, rồi lại đưa trả ta, ta cắm vào trong bình, qua một ngày đêm cành lá lại xanh tươi như cũ”. Hành Giả cười, nói: “Thực là hay quá, hay quá! Đốt khô xém vẫn còn chữa được, huống hồ cây mới quật đổ thì dễ như chơi”!
Nói đoạn, Bồ Tát tay xách bình nước Cam Lộ cùng Ngộ Không tới Ngũ Trang quán. Có bài thơ làm chứng rằng:
Mấy tầng biển đục êm trong vắt,
Một tấm lòng ngay tuyệt bụi trần.
Cam Lộ, cửu kinh màu nhiệm lắm!
Cây tiên chữa sống dễ vô cùng.
Và quả thực, khi đứng trước cây nhân sâm đất bật rễ trơ, cành khô lá rụng, Bồ Tát đã dùng cành dương liễu và nước Cam Lộ để hồi sinh cây nhân sâm, khiến cành lá lại xanh tươi, hai mươi ba quả lại được phục hồi nguyên trạng.
Có thơ rằng:
Đinh non Vạn Thọ động thiên nhiên
Gần vạn năm trường chín quả tiên
Rễ đứt cây thần, cành lá héo
Nước thiêng Cam Lộ, quả hoa nguyên.
Như vậy, Ngộ Không đi khắp mọi nẻo phương trời, đã tìm đến các bậc đạo tiên nơi núi cao biển rộng, nhưng chỉ duy nhất nước Cam Lộ của Quan Âm Bồ Tát mới có thể hồi sinh cây thần. Vậy điều gì giúp nước Cam Lộ làm nên kỳ tích ấy?
Dòng nước Cam Lộ
Bồ Tát nói với Tôn Ngộ Không: “Trấn Nguyên Tử là tổ sư các địa tiên, ta cũng phải nhượng bộ ông ấy ba phần…”. Câu nói này của Bồ Tát vừa là lời trách mắng Ngộ Không khi dám mạo phạm đến Trấn Nguyên đại tiên, vừa tiết lộ vị thế cao quý của Trấn Nguyên Tiên Tử trong các địa tiên.
Quan Âm Bồ Tát thuộc về Phật gia, còn Trấn Nguyên Tử là bậc Chân Nhân thuộc về Đạo gia. Phật và Đạo là hai trường phái tu luyện khác nhau, hai thể hệ hoàn toàn khác nhau: Đạo gia chú trọng thanh tu, tu luyện trong tĩnh, thường là tu đơn độc, hướng đến giải thoát tự thân. Còn Phật gia chú trọng tu Thiện, vì tu Thiện nên có thể xuất tâm từ bi, không chỉ cứu độ bản thân mà còn phát tâm Bồ Đề phổ độ chúng sinh.
Các kinh điển Phật giáo thường nhắc đến “Tây Phương Tam Thánh”, đó là 3 vị gồm Phật A Di Đà, Đại Thế Chí Bồ Tát, và Quan Âm Bồ Tát. Trong đó, Bồ Tát Đại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Ðức Phật A Di Ðà, tượng trưng cho Trí Huệ. Bồ Tát Quan Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy đứng bên tay trái, tượng trưng cho lòng Từ Bi của Đức Phật. Bởi vậy, nước Cam Lộ của Bồ Tát là sinh xuất từ tâm Từ Bi, nên hiển nhiên sẽ khác với “viên đan lúa mạch” của ba vị tiên chốn Bồng Lai, cũng khác với “cửu chuyển Thái Ất hoàn đơn” của Đế Quân – vốn là linh dược của những người tu Đạo.
Nói về nguồn gốc của nước Cam Lộ, có một truyền thuyết kể rằng: Khi Bồ Tát vẫn đang tu luyện giữa thế gian, Ngài đã phải trải qua biết bao nhiêu ma nạn, đã nếm đủ mọi cái khổ trong những cái khổ của người đời.
Một ngày, Phật Tổ hiển linh trao cho Ngài chiếc bình Bạch Ngọc Dương Chi, dặn rằng: Con cần tu tới khi trong bình nở hoa, gọi là Cam Lộ Dương Chi, lúc đó mới thực sự thành chính quả, pháp lực vô biên.
Còn nói về chiếc bình tịnh thủy, trong Tây Du Ký hồi thứ 6, khi Ngộ Không và Nhị Lang Thần so tranh cao thấp, Quan Âm có ý ném tịnh bình xuống để bắt thạch hầu, Thái Thượng Lão Quân đã gọi chiếc bình ấy là “bình sứ”. Còn trong hồi thứ 42 khi Đại Thánh mời Quan Âm tới thu phục Hồng Hài Nhi, tịnh bình lại được gọi là “bình ngọc báu”. Cho dù bằng sứ hay bằng ngọc, thì đó cũng là chiếc bình thanh tịnh chỉ có nơi Phật giới, tuyệt nhiên không phải là thứ vật tầm thường trong nhân thế.
Nước Cam Lộ ấy phải được đựng trong chiếc bình thanh tịnh và phải dùng cành dương liễu thì mới có khả năng rưới mát chúng sinh. Cành dương liễu cũng phải được cắm trong tịnh bình, nhúng vào nước Cam Lộ thanh khiết mới có thể phát huy pháp lực vô biên. Nghĩa là, ở đây phải có sự kết hợp của ba yếu tố:
Nước Cam Lộ: là thứ nước thánh tinh khiết, rất trong, mát, và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được – tượng trưng cho lòng từ bi, nghĩa là “Thiện”.
Cành dương liễu: là loại cây yếu mềm lại dẻo dai, uyển chuyển lay theo chiều gió, gió mạnh cũng không gãy, có thể tùy duyên mà không chịu khuất phục, có thể thuận theo ngoại cảnh mà không bị cảnh chi phối. Cành dương liễu mềm dẻo mà lại kiên cường, tượng trưng cho đức nhẫn nhục và chịu đựng, nghĩa là “Nhẫn”.
Bình tịnh thủy: là chiếc bình hoàn toàn thanh tịnh chỉ có ở nơi Phật giới, và phải đạt đến độ thánh khiết như bình ngọc thì mới có thể được dùng để đựng nước Cam Lộ. Khi cứu cây nhân sâm, Bồ Tát cũng nói rằng: “Nước này những vật thuộc ngũ hành không được phạm vào, mà phải lấy bầu ngọc múc nước”. Như vậy, bình tịnh thủy là tượng trưng của “Chân”.
Ví như có Thiện tâm, có mong muốn phổ độ chúng sinh nhưng lại không thể nhẫn nhục, không thể chịu khổ thì làm sao cứu độ được con người? Cũng ví như có đức Nhẫn cự đại, có ý chí kiên cường nhưng bản thân không phát tâm từ bi thì làm sao bước ra độ nhân được? Và ví như đã đầy đủ cả Thiện, cả Nhẫn, nhưng lại không mang tâm thuần tịnh, tâm ý không đủ thuần khiết thì việc cứu người có làm mà chẳng nên công cán gì…
Vậy mới nói, thứ “linh dược” thần thánh nhất là thứ linh dược sinh xuất ra khi hội tụ đầy đủ cả Chân, Thiện và Nhẫn. Chỉ có thiện tâm lớn lao và lòng từ bi cự đại, được gìn giữ trong đức tính chân thật, kinh qua đức nhẫn nhịn trong quá trình tu luyện gian nan, thì mới có thể làm nên những kỳ tích thần kỳ.
Thảo Ngọc
Xem thêm: