Trung Cộng trong 100 năm: Một thế kỷ tàn sát và lừa dối
Lưu ý của biên tập viên: Một số câu chuyện tường thuật trong bài viết này chứa các chi tiết phản cảm và đáng lo ngại về tra tấn cùng các hình thức đối xử đê hèn khác.
Được thành lập vào tháng 07/1921, trong một thế kỷ, Trung Cộng đã gieo rắc cái chết và sự hủy diệt cho người dân Trung Quốc.
Lấy tư tưởng “đấu tranh” của chủ nghĩa Marx làm tôn chỉ hoạt động, Trung Cộng đã phát động nhiều cuộc vận động nhắm vào một danh sách dài các nhóm kẻ thù: gián điệp, địa chủ, trí thức, quan chức bất trung, sinh viên ủng hộ dân chủ, tín đồ tôn giáo và dân tộc thiểu số.
Với mỗi cuộc vận động, mục tiêu ngoài miệng của Đảng này là tạo ra một “thiên đường cộng sản ở nhân gian.” Nhưng hết lần này đến lần khác, kết quả đều như nhau: đau khổ và tử vong hàng loạt. Trong khi đó, một số quan chức Trung Cộng thuộc tầng lớp thượng lưu cùng gia đình họ đã tích lũy được quyền lực và sự giàu có đáng kinh ngạc.
Hơn 70 năm cai trị của đảng này đã dẫn đến sự thiệt mạng của hàng chục triệu người Trung Quốc cùng sự phá hủy của nền văn minh [Trung Hoa] 5,000 năm.
Trong những thập kỷ gần đây, mặc dù Trung Quốc đã tiến bộ về kinh tế, nhưng Trung Cộng vẫn giữ nguyên bản chất là một chế độ theo chủ nghĩa Marx-Lenin, quyết tâm củng cố sự kìm kẹp của mình đối với Trung Quốc và thế giới. Hàng triệu tín đồ tôn giáo, người dân tộc thiểu số, và những người bất đồng chính kiến vẫn bị đàn áp dữ dội cho đến ngày nay.
Dưới đây là phần tóm lược một số sự kiện tàn ác chủ yếu mà Trung Cộng đã gây ra trong lịch sử 100 năm của nó.
Sự kiện Liên đoàn chống Bolshevik
Chưa đầy một thập kỷ sau khi thành lập đảng, Mao Trạch Đông, khi đó là người đứng đầu lãnh thổ do cộng sản kiểm soát thuộc tỉnh Giang Tây, phía đông nam Trung Quốc, đã phát động một cuộc thanh trừng chính trị đối với các đối thủ của ông ta, được biết đến với tên gọi Sự kiện Liên đoàn Chống Bolshevik. Mao cáo buộc các đối thủ của mình đang làm việc cho Liên đoàn Chống Bolshevik, cơ quan tình báo của Quốc Dân Đảng, vốn là đảng cầm quyền của Trung Quốc lúc bấy giờ.
Kết quả là hàng ngàn binh sĩ Hồng quân và đảng viên đã bị sát hại trong cuộc thanh trừng này.
Bắt đầu vào mùa hè năm 1930, chiến dịch kéo dài một năm nói trên đã đánh dấu sự khởi đầu cho một loạt các cuộc vận động do kẻ lãnh đạo hoang tưởng này chỉ huy, vốn chỉ ngày càng trở nên đẫm máu và rộng lớn hơn theo thời gian. Việc tàn sát hàng loạt này đã kéo dài cho đến khi Mao qua đời vào năm 1976.
Mặc dù không có hồ sơ ghi chép nào cho thấy chính xác có bao nhiêu đảng viên Trung Cộng đã bị sát hại trong chiến dịch này, nhà sử học Trung Quốc Cao Hoa (Guo Hua) đã viết trong một bài báo năm 1999 rằng trong vòng một tháng, 4,400 trong số 40,000 binh sĩ Hồng quân đã bị hành quyết, bao gồm cả hàng chục lãnh đạo quân đội. Trong vòng vài tháng, ủy ban Trung Cộng ở phía tây nam của tỉnh Giang Tây đã sát hại hơn 1,000 thành viên là thường dân của mình.
Vào cuối phong trào này, ủy ban Trung Cộng ở Giang Tây báo cáo rằng 80 đến 90% quan chức Trung Cộng trong khu vực này đã bị buộc tội là gián điệp và bị xử tử.
Báo cáo cho biết, người nhà của các quan chức cao cấp này cũng đã bị bắt giữ và sát hại. Theo ông Cao, trong số những phương pháp đã được sử dụng để tra tấn các đảng viên Trung Cộng này, có đốt da, cắt ngực đối với phụ nữ và xiên tăm tre vào dưới móng tay.
Cuộc chỉnh phong ở Diên An
Sau khi trở thành lãnh đạo của đảng, Mao đã khởi động cuộc vận động chỉnh phong Diên An—cuộc vận động tư tưởng quần chúng đầu tiên của Trung Cộng—vào năm 1942. Từ căn cứ của Trung Cộng ở vùng núi hẻo lánh của Diên An, phía tây bắc tỉnh Thiểm Tây, Mao và những kẻ trung thành với ông ta đã sử dụng chiến thuật quen thuộc là buộc tội các đối thủ của mình là gián điệp nhằm thanh trừng các quan chức cao cấp và các đảng viên khác.
Cuối cùng, đã có khoảng 10,000 đảng viên Trung Cộng bị sát hại.
Bà Vi Quân Nghi (Wei Junyi) viết trong một cuốn sách năm 1998 rằng, trong suốt phong trào, mọi người đã bị tra tấn và buộc phải thú nhận là gián điệp.
Bà Vi—lúc đó là biên tập viên của hãng thông tấn nhà nước Tân Hoa Xã—viết, “Ở Diên An, mọi người đều trở thành gián điệp, từ học sinh trung học đến học sinh tiểu học. Những đứa trẻ 12 tuổi, 11 tuổi, 10 tuổi, thậm chí là một gián điệp 6 tuổi đã bị phát hiện!”
Số phận bi thảm của gia đình ông Thạch Bạc Phu (Shi Bofu), một họa sĩ địa phương, đã được kể lại trong cuốn sách của bà Vi. Năm 1942, các quan chức Trung Cộng bất ngờ cáo buộc ông Thạch là gián điệp và bắt giam ông. Đêm đó, vợ ông Thạch, không thể chịu đựng nổi bản án tử hình có thể xảy đến với chồng mình, đã quyên sinh cùng hai đứa con nhỏ. Vài giờ sau, các quan chức tìm thấy thi thể của bà cùng những đứa trẻ và công khai tuyên bố rằng vợ ông Thạch có “lòng căm thù sâu sắc” đối với đảng và nhân dân, vì vậy chết là đáng tội.
Cải cách ruộng đất
Vào tháng 10/1949, Trung Cộng nắm được quyền kiểm soát Trung Quốc và Mao trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên của đảng này. Nhiều tháng sau, trong cuộc vận động đầu tiên của Trung Cộng, có tên là Cải cách Ruộng đất, Mao đã vận động những nông dân nghèo nhất đất nước dùng vũ lực chiếm đoạt đất đai cùng những tài sản khác của những ai bị cho là địa chủ—nhiều người trong số đó chỉ là những nông dân khá giả hơn [họ một chút]. Hàng triệu người đã thiệt mạng.
Vào năm 1949, Mao bị buộc tội là một nhà độc tài và đã thừa nhận điều đó.
“Thưa các ngài, các ngài nói đúng, chúng tôi chính là như thế đó,” ông ta viết, theo China File, một tạp chí do Trung tâm Bang giao Hoa Kỳ-Trung Quốc của Hiệp hội Á Châu phát hành. Theo Mao, những người cộng sản nắm quyền nên chuyên quyền độc đoán để chống lại “những con chó chạy theo chủ nghĩa đế quốc,” “giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản quan liêu,” và “những kẻ phản động cùng đồng bọn của chúng”—những người có liên hệ với phe đối lập Quốc Dân Đảng.
Dĩ nhiên, những người cộng sản này sẽ quyết định ai đủ tiêu chuẩn là “chó theo đuôi,” “kẻ phản động,” hay thậm chí là “địa chủ.”
Theo nhà sử học Frank Dikötter, người đã ghi chép tỉ mỉ về sự tàn bạo của Mao, “Nhiều nạn nhân đã bị đánh đến chết và một số thì bị bắn, nhưng trong nhiều trường hợp, đầu tiên họ sẽ bị tra tấn nhằm khiến họ tiết lộ về tài sản của mình—dù là có thật hay tưởng tượng.”
Cuốn sách [được xuất bản] năm 2019 mang tên “Vùng Đất Đỏ Đẫm Máu” đã ghi lại câu chuyện của ông Lý Mạn (Li Man), một địa chủ sống sót đến từ Trùng Khánh, ở phía tây nam Trung Quốc. Sau khi Trung Cộng lên nắm quyền, các quan chức tuyên bố rằng gia đình ông Lý đã cất giữ 1,500 cân vàng. Nhưng điều này là không đúng, vì gia đình đã phá sản nhiều năm trước đó do cha ông Lý bị nghiện ma túy.
Không có vàng để đưa cho Trung Cộng, ông Lý đã bị tra tấn đến suýt chết.
“Họ lột trần tôi, trói tay chân tôi vào một cây gậy. Sau đó, họ buộc một sợi dây quanh bộ phận sinh dục của tôi và buộc một tảng đá vào chân tôi,” ông Lý kể lại. Ông kể rằng sau đó họ treo sợi dây lên một cái cây. Ngay lập tức, “máu trào ra từ rốn của tôi,” ông Lý kể.
Cuối cùng ông Lý đã được một quan chức Trung Cộng cứu, người này đã đưa ông đến nhà một bác sĩ Trung y. Nhưng ngay cả khi bị thương nặng ở các cơ quan nội tạng và bộ phận sinh dục, ông Lý vẫn cho rằng mình là người may mắn. 10 người khác bị tra tấn cùng lúc với ông Lý đều đã tử vong. Trong vài tháng sau đó, thân nhân và họ hàng của ông Lý đã lần lượt bị tra tấn đến thiệt mạng.
Kết quả của sự tra tấn là ông Lý—lúc đó 22 tuổi—đã mất đi khả năng làm cha của mình. Trong các cuộc vận động tiếp theo của Trung Cộng, ông Lý đã bị tra tấn nhiều lần nữa, khiến ông mất đi thị lực.
Đại nhảy vọt
Vào năm 1958, Mao đã phát động Đại nhảy vọt, một chiến dịch kéo dài bốn năm nhằm thúc đẩy đất nước tăng sản lượng thép theo cấp số nhân trong khi tiến hành hợp tác xã nông nghiệp. Mục tiêu, như khẩu hiệu của Mao, là “vượt qua Anh Quốc và bắt kịp Hoa Kỳ.”
Nông dân được lệnh xây các lò luyện ở sân sau để luyện thép, khiến đất canh tác bị bỏ bê nghiêm trọng. Hơn nữa, các quan chức địa phương quá khích sợ bị coi là “kẻ tụt hậu” đã đặt ra các mức thuế suất trên sản lượng thu hoạch cao một cách phi thực tế. Kết quả là nông dân không còn gì để ăn sau khi giao nộp lượng lớn hoa màu của họ làm thuế.
Những gì xảy ra sau đó là thảm họa nhân tạo tồi tệ nhất trong lịch sử: Nạn Đói Lớn từ năm 1959 đến năm 1961, trong đó hàng chục triệu người đã chết đói.
Nông dân bị đói đã chuyển sang ăn động vật hoang dã, cỏ, vỏ cây, và thậm chí là cao lanh (kaolinite), một loại khoáng chất đất sét. Nạn đói cùng cực cũng khiến nhiều người phải ăn thịt đồng loại.
Có những trường hợp được ghi nhận về việc có người phải ăn thi thể của người lạ, bạn bè và người nhà, cũng như cha mẹ sát hại con cái để làm thức ăn—và ngược lại.
Ông Jasper Becker, tác giả của cuốn sách “Những Con Ma Đói” (Hungry Ghosts), câu chuyện kể về Đại nhảy vọt, đã nói rằng người dân Trung Quốc buộc phải tham gia—vì tuyệt vọng thuần túy—vào việc bán thịt người ngoài chợ và hoán đổi con cái để họ không phải ăn thịt con mình.
Trên khắp 13 tỉnh thành, đã có tổng cộng từ 3,000 đến 5,000 trường hợp ăn thịt đồng loại được ghi nhận.
Ông Becker lưu ý rằng việc ăn thịt người ở Trung Quốc vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 60 có thể đã xảy ra “trên quy mô chưa từng có trong lịch sử thế kỷ 20.”
Nhà sử học Trung Quốc Dư Tập Quảng (Yu Xiguang) vào những năm 1980 đã tìm thấy một bức ảnh tư liệu từ quê hương ông ở tỉnh Hồ Nam. Bức ảnh cho thấy một người đàn ông tên là Lưu Gia Viễn (Liu Jiayuan) đang đứng bên cạnh đầu và xương cậu con trai 1 tuổi của anh ta. Cuối cùng, họ Lưu đã bị xử tử vì tội sát nhân.
Sau đó, ông Dư đã phỏng vấn người nhà còn sống của Lưu vào những năm 2000 để xác minh câu chuyện. Ông viết trong một báo cáo: “Lưu Gia Viễn đã cực kỳ đói. Anh ta sát hại con trai mình và nấu [thịt thành] một bữa ăn lớn. Trước khi ăn xong, người nhà đã phát hiện ra tội ác của anh ta và trình báo với cảnh sát. Sau đó anh ta đã bị bắt và xử tử.”
Theo nhà sử học Dikötter, tác giả cuốn “Nạn Đói Lớn của Mao,” có tới 45 triệu người đã thiệt mạng trong thời kỳ Đại nhảy vọt.
Cách mạng Văn hóa
Sau thất bại thảm hại của Đại nhảy vọt, Mao, cảm thấy rằng mình đang mất dần quyền lực, đã phát động Cách mạng Văn hóa vào năm 1966 trong một nỗ lực sử dụng quần chúng Trung Quốc để tái khẳng định quyền kiểm soát đối với Trung Cộng và đất nước. Theo một chỉ thị ban đầu, khi tạo ra sự sùng bái cá nhân, Mao muốn “đè bẹp những người cầm quyền đang đi theo con đường tư bản” đồng thời củng cố hệ tư tưởng của riêng mình.
Trong hơn 10 năm [đất nước rơi vào] tình trạng hỗn loạn do chính sách, hàng triệu người đã bị sát hại hoặc tự vẫn trong bối cảnh bạo lực do nhà nước khởi xướng, khi những người trẻ tuổi nhiệt huyết, các Hồng Vệ Binh khét tiếng, đi khắp đất nước để phá hủy và chê bai truyền thống và di sản của Trung Quốc.
Đó là một nỗ lực của toàn xã hội, với việc đảng khuyến khích người dân thuộc mọi tầng lớp xã hội tố cáo đồng nghiệp, hàng xóm, bạn bè và thậm chí cả người nhà là “phản cách mạng”—bất kỳ ai có suy nghĩ hoặc hành vi không đúng đắn về chính trị.
Các nạn nhân, bao gồm trí thức, nghệ sĩ, quan chức Trung Cộng và những người khác bị coi là “kẻ thù giai cấp,” đã phải chịu đựng cách đối xử hạ nhục mang tính nghi thức thông qua “các buổi đấu tố”—các cuộc tụ tập công khai nơi nạn nhân bị buộc phải thừa nhận tội ác được gán cho họ và chịu đựng sự lăng mạ và đánh đập từ đám đông, trước khi họ bị giam giữ, tra tấn, và đưa về nông thôn để lao động cưỡng bức.
Phong tục và văn hóa truyền thống Trung Quốc là mục tiêu trực tiếp trong chiến dịch của Mao nhằm tiêu diệt “Tứ Cựu”—phong tục cũ, văn hóa cũ, tập quán cũ và tư tưởng cũ. Kết quả là vô số di tích văn hóa, đền thờ, nhà cổ, tượng và sách đã bị phá hủy.
Bà Trương Chí Tân (Zhang Zhixin), một đảng viên Trung Cộng ưu tú từng làm việc trong chính quyền tỉnh Liêu Ninh, là một trong những nạn nhân của chiến dịch này. Theo một báo cáo được truyền thông Trung Quốc đưa tin sau Cách mạng Văn hóa, một đồng nghiệp đã trình báo bà Trương vào năm 1968 sau khi bà bình luận với đồng nghiệp đó rằng bà không thể hiểu được một số hành động của Trung Cộng. Người phụ nữ 38 tuổi này sau đó đã bị giam giữ tại một trung tâm đào tạo cán bộ đảng ở địa phương, nơi giam giữ hơn 30,000 nhân viên của chính quyền tỉnh.
Trong thời gian bị giam giữ, bà không chịu thừa nhận đã làm bất cứ điều gì sai trái và giữ vững quan điểm chính trị của mình. Bà quả quyết vẫn trung thành với đảng nhưng không đồng ý với một số chính sách của Mao. Bà đã bị bỏ tù.
Ở đó, bà Trương đã phải chịu muôn vàn đau khổ khi các quan chức cố gắng buộc bà từ bỏ quan điểm của mình. Các cai ngục sẽ dùng dây sắt để giữ miệng bà mở và sau đó nhét một giẻ lau bẩn vào miệng. Họ còng tay bà ra sau lưng và treo một khối sắt nặng 40 pound (khoảng 18 cân) vào dây xích còng tay. Các quan chức Trung Cộng cấp tỉnh thậm chí còn bứt hết tóc của bà, và lính canh thường sắp xếp để các nam tù nhân hãm hiếp tập thể bà.
Bà Trương đã cố gắng tự tử nhưng bất thành, điều này khiến các quan chức nhà tù tăng cường kiểm soát. Chồng bà cũng bị buộc phải ly hôn với bà. Đến đầu năm 1975, bà Trương rơi vào trạng thái điên loạn. Vào tháng 4 năm đó, bà bị xử bắn. Trước khi bị bắn, cai ngục đã cắt khí quản của bà để khiến bà không hô lên. Bà qua đời ở tuổi 45.
Trong thời gian bà Trương bị giam giữ, chồng và hai con nhỏ của bà buộc phải từ mặt bà. Khi hay tin bà qua đời, họ thậm chí không dám khóc—vì sợ hàng xóm nghe thấy, những người có thể trình báo họ vì đã mang tâm uất hận đối với Đảng.
Phong trào thảm khốc này chấm dứt vào tháng 10/1976, chưa đầy một tháng sau cái chết của Mao.
Theo ông Dikötter, di sản của Cách mạng Văn hóa vượt xa những mảnh đời bị hủy hoại.
“Đặc trưng của Cách mạng Văn hóa không phải là về cái chết, mà là về sự sang chấn tâm lý,” ông nói với NPR vào năm 2016.
“Đó là về cách mà mọi người bị đem ra đối chọi với nhau, bị buộc phải tố cáo người nhà, đồng nghiệp, bạn bè. Đó là về sự mất mát, mất đi sự tín nhiệm, mất đi tình bạn, mất đi niềm tin vào con người, mất đi khả năng dự đoán trong các mối quan hệ xã hội. Và đó thực sự là dấu ấn mà Cách mạng Văn hóa đã để lại.”
Chính sách một con
Năm 1979, Trung Cộng đã đưa ra “chính sách một con,” cho phép các cặp vợ chồng chỉ có một con, trong một chiến dịch có vẻ như nhằm nâng cao mức sống bằng cách kiềm chế sự gia tăng dân số. Chính sách này đã gây ra tình trạng cưỡng bức phá thai, cưỡng bức triệt sản và sát hại trẻ sơ sinh trên diện rộng. Truyền thông nhà nước Trung Quốc đưa tin trích dẫn số liệu của Bộ Y tế Trung Quốc, từ năm 1971 đến năm 2013 đã có 336 triệu thai nhi bị phá bỏ.
Bà Hạ Nhuận Anh (Xia Runying), một nông phụ ở tỉnh Giang Tây, người từng bị cưỡng bức triệt sản, đã viết trong một bức thư công khai vào năm 2013 rằng gia đình bà yêu cầu hoãn cuộc phẫu thuật vì sức khỏe của bà không tốt. Tuy nhiên, giới chức địa phương nói rằng họ vẫn sẽ tiến hành phẫu thuật ngay cả khi phải trói bà lại bằng dây thừng.
Sau ca phẫu thuật, bà bắt đầu đi tiểu ra máu, đau đầu và đau bụng. Sau đó, bà buộc phải ngừng làm việc.
Trung Cộng đã ngừng chính sách một con vào năm 2013 và cho phép sinh hai con. Vào ngày 31/05/2021, đảng này thông báo rằng các gia đình có thể có ba con.
Vụ thảm sát ở Quảng trường Thiên An Môn
Những gì bắt đầu như một cuộc tụ tập sinh viên vào tháng 04/1989 để thương tiếc cho sự ra đi của ông Hồ Diệu Bang (Hu Yaobang)—cựu lãnh đạo Trung Quốc có tư tưởng cải cách—đã biến thành cuộc biểu tình lớn nhất mà nhà cầm quyền này từng chứng kiến. Các sinh viên đại học tập trung tại quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh đã yêu cầu Trung Cộng kiểm soát lạm phát trầm trọng, kiềm chế sự tham nhũng của các quan chức, chịu trách nhiệm về những sai lầm trong quá khứ, đồng thời ủng hộ tự do báo chí và các ý tưởng dân chủ.
Đến tháng 05/1989, sinh viên trên khắp Trung Quốc và cư dân Bắc Kinh từ mọi tầng lớp xã hội đã tham gia cuộc biểu tình. Các cuộc biểu tình tương tự đã xảy ra trên khắp đất nước.
Các lãnh đạo Trung Cộng đã không đồng ý với yêu cầu của sinh viên.
Thay vào đó, Trung Cộng đã lệnh cho quân đội dập tắt cuộc biểu tình. Vào tối ngày 03/06/1989, xe tăng đã lăn bánh vào thành phố và bao vây quảng trường. Nhiều người biểu tình không vũ trang đã mất đi mạng sống hoặc bị tàn tật sau khi bị xe tăng đè bẹp hoặc bị trúng đạn sau khi quân đội bắn bừa bãi vào đám đông. Ước tính có hàng ngàn người đã thiệt mạng.
Bà Lily Zhang, y tá trưởng tại một bệnh viện ở Bắc Kinh, cách quảng trường này 15 phút đi bộ, kể lại với The Epoch Times về cuộc đổ máu trong đêm đó. Bà thức dậy sau tiếng súng và vội vã đến bệnh viện vào sáng ngày 04/06 sau khi nghe tin về vụ thảm sát.
Khi đến bệnh viện, bà đã rất kinh hoàng khi chứng kiến một cảnh tượng giống như “chiến trường.” Một y tá khác đang khóc nức nở nói với bà rằng, vũng máu từ những người biểu tình bị thương đang “chảy thành sông tại bệnh viện.”
Tại bệnh viện của bà Zhang, ít nhất 18 người đã tử vong vào thời điểm họ được đưa tới cơ sở này.
Bà Zhang cho biết, quân đội đã sử dụng đạn “dum-dum,” loại đạn sẽ nở ra bên trong thân thể nạn nhân và gây thêm sát thương. Nhiều người đã phải chịu những vết thương nghiêm trọng và chảy nhiều máu đến nỗi “không thể cứu sống nổi họ nữa.”
Tại cổng bệnh viện, một phóng viên bị thương nặng của tờ China Sports Daily do nhà nước sở hữu nói với hai nhân viên y tế đang bế anh rằng anh “không tưởng tượng được Trung Cộng sẽ thực sự nổ súng.”
Bà Zhang nhớ lại, những lời cuối cùng của anh ấy là, “Bắn hạ những sinh viên và thường dân không có vũ khí—đây là loại đảng cầm quyền gì vậy?”
Vào tháng 05/1989, một tháng trước khi xảy ra vụ thảm sát, lãnh đạo Trung Cộng đương thời là Đặng Tiểu Bình, người ra lệnh cho cuộc đàn áp đẫm máu này, đã được trích dẫn trong một bức điện tín của chính phủ Anh Quốc khi nói rằng “hai trăm người chết có thể mang lại 20 năm hòa bình cho Trung Quốc.”
Đến tận hôm nay, Trung Cộng vẫn từ chối tiết lộ số người thiệt mạng trong vụ thảm sát hoặc danh tính của họ, đồng thời bưng bít chặt chẽ thông tin về vụ việc.
Cuộc đàn áp Pháp Luân Công
Một thập kỷ sau, Trung Cộng quyết định thực hiện một cuộc đàn áp đẫm máu khác.
Vào ngày 20/07/1999, nhà cầm quyền này bắt đầu một chiến dịch rộng rãi nhắm vào ước tính khoảng 70 đến 100 triệu học viên của Pháp Luân Công, một môn tu luyện tinh thần bao gồm các bài công pháp thiền định và những bài giảng đạo đức xoay quanh các nguyên lý Chân, Thiện và Nhẫn.
Theo Trung tâm Thông tin Pháp Luân Đại Pháp, một trang web cung cấp thông tin liên quan đến Pháp Luân Công, hàng triệu học viên đã bị đuổi việc, đuổi học, bỏ tù, tra tấn hoặc bị sát hại chỉ vì họ không chịu từ bỏ đức tin của mình.
Năm 2019, một tòa án nhân dân độc lập ở London đã xác nhận rằng Trung Cộng đã tiến hành cưỡng bức thu hoạch nội tạng “trên một quy mô đáng kể” và các học viên Pháp Luân Công bị bỏ tù “có khả năng là nguồn cung chủ yếu.”
Anh Hà Lập Phương (He Lifang), một học viên Pháp Luân Công 45 tuổi đến từ Thanh Đảo, một thành phố thuộc tỉnh Sơn Đông, đã qua đời sau khi bị giam giữ trong hai tháng. Người thân của anh cho biết có những vết rạch trên ngực và lưng của anh. Theo trang Minh Huệ Net (Minghui.org), một trang web [có trụ sở tại Hoa Kỳ] chuyên theo dõi cuộc bức hại Pháp Luân Công ở Trung Quốc, khuôn mặt của anh trông như thể anh đang đau đớn, và có những vết thương trên khắp thân thể anh.
Đàn áp các nhóm tôn giáo và dân tộc thiểu số
Để duy trì sự cai trị của mình, Trung Cộng đã chuyển lượng lớn người Hán đến Tây Tạng, Tân Cương và Nội Mông, nơi các nhóm dân tộc sống với nền văn hóa và ngôn ngữ riêng của họ. Nhà cầm quyền này buộc các trường học địa phương sử dụng tiếng Hoa phổ thông (tiếng Quan Thoại) làm ngôn ngữ chính thức.
Vào năm 2008, người dân Tây Tạng đã biểu tình để bày tỏ sự tức giận của họ trước sự kiểm soát của chế độ. Để đáp lại, Trung Cộng đã khai triển cảnh sát. Hàng trăm người Tây Tạng đã bị sát hại.
Kể từ năm 2009, hơn 150 người Tây Tạng đã tự thiêu, hy vọng cái chết của họ có thể ngăn chặn sự kiểm soát chặt chẽ của Trung Cộng ở Tây Tạng.
Tại Tân Cương, giới chức Trung Cộng đã bị cáo buộc phạm tội diệt chủng đối với người Duy Ngô Nhĩ và các dân tộc thiểu số khác, bao gồm cả việc giam giữ một triệu người trong các trại “cải tạo chính trị” bí mật.
Năm ngoái, nhà cầm quyền ở Bắc Kinh đã đặt ra một chính sách mới bắt buộc chỉ cho dạy chương trình tiếng Hoa phổ thông ở một số trường học ở Nội Mông. Khi phụ huynh và học sinh phản đối, họ đã bị đe dọa bằng việc bắt giữ, giam giữ và mất việc làm.
Trung Cộng cũng sử dụng một hệ thống giám sát để giám sát các nhóm dân tộc. Các camera giám sát được thiết lập trong các tu viện Tây Tạng, và dữ liệu sinh trắc học được thu thập ở Tân Cương.
Do Nicole Hao thực hiện
Với sự đóng góp của Eva Fu, Jack Phillips, Leo Timm, và Cathy He
Từ Huệ biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times
Xem thêm: