‘Tiếu đàm phong vân’ – Tập 10: Tri nhân thiện nhiệm (Phần 1)
Nhạc Dương hao tốn quân lực – Mua chuộc lòng dân
Lời bạch: Sau khi tam gia phân Tấn, Trung Quốc bước vào thời đại Chiến Quốc. Trong ba nước, nước Ngụy là mạnh nhất. Vua của nước Ngụy là Ngụy Văn Hầu, ông là cháu trai của Ngụy Hoàn Tử, khi đó đất đai nước Ngụy chiếm lĩnh nằm ở vị trí trung tâm của chiến quốc thất hùng, phía tây là nước Tần, phía nam là nước Sở, phía bắc là nước Triệu, phía đông là nước Hàn, xa hơn về phía đông là nước Tề và nước Yên. Đây là khu vực nội Trung Nguyên phì nhiêu nhất lưu vực sông Hoàng Hà, có nhiều lợi thế về đất đai. Nguyên nhân quan trọng khiến nước Ngụy hưng thịnh là nhân tài. Ngụy Văn Hầu là một Quân Chủ giỏi dùng người, ông sáng lập ra nước Ngụy, tạo ra cục diện hùng mạnh suốt hơn nửa thế kỷ.
Ngụy Văn Hầu tên gọi là Ngụy Tư, trong “Sử ký” còn gọi là Ngụy Đô, ông làm vua tổng cộng 38 năm. Căn cứ theo “Chiến Quốc chí khảo đính”, Ngụy Văn Hầu làm vua từ năm 446 TCN đến năm 396 TCN, tổng cộng 50 năm.
Một câu chuyện rất nổi tiếng về Ngụy Văn Hầu thế này, một lần khi ông đang dùng bữa cùng các quần thần, bên ngoài trời mưa to, cũng sắp đến buổi trưa, ông đột nhiên quyết định muốn đi ra ngoài. Quần thần khuyên ông ngoài trời đang mưa, ngài đội mưa đi ra ngoài để làm gì đây, Ngụy Văn Hầu nói ta đã có hẹn với Ngu Nhân. Vào thời Chiến Quốc, “Ngu Nhân” là quan quản lý núi rừng điền trạch, tương đương bộ trưởng Nông Lâm ngày nay.
Ngụy Văn Hầu hẹn với Ngu Nhân cùng đi săn. Các đại thần đều can ngăn, bây giờ mưa to như thế, làm sao có thể đi săn? Ngụy Văn Hầu nói, đúng là không thể đi săn, nên ta phải đích thân đi tìm ông ta để hủy cuộc hẹn này. Ngụy Văn Hầu đã thực sự đội mưa từ trong cung đi ra ngoài. Bách tính nhìn thấy Vua đội mưa xuất cung, đều không biết Vua muốn làm gì, sau này nghe nói vì muốn hủy cuộc hẹn với Ngu Nhân, hết thảy đều cảm thấy Ngụy Văn Hầu là vị Vua luôn giữ chữ tín.
Ngụy Văn Hầu rất chú trọng Nho học, theo ghi chép trong “Sử ký – Ngụy thế gia”, Ngụy Văn Hầu đã từng trải qua “thụ Tử Hạ kinh nghệ”, là nói ông là môn đồ của Tử Hạ. Tử Hạ là môn đồ của Khổng Tử, nhỏ hơn Khổng Tử 44 tuổi. Tử Hạ là người rất khó tiếp xúc. Trong sách “Tuân Tử” ghi lại rằng, Tử Hạ rất nghèo, có người khuyên ông, nói ông nghèo đến mức như vậy, tại sao không mưu cầu phú quý? Tử Hạ trả lời, nếu như Vua ngạo mạn với tôi, tôi không muốn làm thần tử của ông ta; nếu như các đại thần ngạo mạn với tôi, tôi cũng không muốn gặp họ. Ông có thể là thầy của Ngụy Văn Hầu, thì có lẽ Ngụy Văn Hầu đối với ông rất lễ độ.
Tử Hạ có thể không dạy Ngụy Văn Hầu được thời gian dài, vì vào năm 407 TCN, Ngụy Văn Hầu mời Tử Hạ đến khu vực Tây Hà dạy học mà Tử Hạ sinh năm 507 TCN. Ông khi đó đã là ông lão 100 tuổi, hơn nữa vì con trai qua đời mà khóc đến mù cả mắt. Ngụy Văn Hầu khả năng chủ yếu theo hai người học trò của Tử Hạ, một người là Cốc Lương Xích, một người là Công Dương Cao.
Phàm là người nghiên cứu Nho học, sẽ có ấn tượng khá sâu sắc với hai cái tên này. Chúng ta biết Khổng Tử viết một cuốn sách gọi là “Xuân Thu”, hai người Cốc Lương Xích và Công Dương Cao phụ trách truyền thụ “Xuân Thu”. Những bài họ giảng được ghi chép lại thành “Xuân Thu Cốc Lương truyện” và “Xuân Thu Công Dương truyện”. Hai cuốn sách này về sau cũng trở thành kinh điển của nho gia. Đời Hán có một đại nho gia gọi là Đổng Trọng Thư, ông chuyên nghiên cứu “Xuân Thu Công Dương truyện”.
Ngoài chuyện đó ra, Ngụy Văn Hầu lấy lễ khách khanh mà đối đãi với Đoạn Can Mộc. Đoạn Can Mộc cũng là một nho sinh nổi tiếng, cũng là môn đồ của Tử Hạ. Mỗi lần Ngụy Văn Hầu đi xe qua làng quê của Đoạn Can Mộc, ông nhất định phải đứng lên, tay vịn vào thanh ngang ở đầu xe, hướng đến nơi ở của Đoạn Can Mộc bày tỏ sự kính trọng.
Ngoài việc coi trọng Nho học ra, Ngụy Văn Hầu còn rất chú trọng đến pháp luật. Trong tay của ông có một người tên là Lý Khôi, trong “Sử ký” viết là Lý Khắc, đã từng làm tướng quốc 10 năm cho Ngụy Văn Hầu. Lý Khôi là người Trung Quốc đầu tiên chế định ra bộ pháp điển bằng văn bản tương đối đầy đủ. Quyển sách này gọi là “Pháp Kinh”. Bởi vì Lý Khôi rất chú trọng pháp luật, nên rất nhiều người quy ông thuộc pháp gia, nhưng tôi cho rằng đây là cách nói không đúng. Ông chỉ là một người rất chú trọng đến luật pháp. Nhưng năm đó Thương Ưởng từ nước Ngụy đến nước Tần, trước khi khuyên Tần Hiếu Công cải cách chính trị, chỉ đem theo duy nhất một quyển sách là bộ “Pháp Kinh” của Lý Khôi.
Về chủ trương của Lý Khôi, chúng ta khó có thể thấy được ở trong “Sử ký”. Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy trong một số cuộc đối thoại giữa Lý Khôi và Ngụy Vương. Nhưng trong “Hán thư-Thực hóa chí”, có giới thiệu một đôi chút về pháp luật và phương thức trị lý quốc gia của Lý Khôi khi đó.
Một chủ trương của Lý Khôi là “tận địa lực chi giáo”, khích lệ nông dân sản xuất; một chủ trương khác là phổ biến “thu mua lương thực” nhằm hạn chế tăng giá. Như vậy bách tính mới có thể trở nên giàu có. Ông còn có một cách làm rất thú vị, khi ông cai quản một nơi, đối với những vụ án vụn vặt, ông sẽ cho nguyên cáo và bị cáo thi bắn cung, ai bắn cung giỏi thì người đó thắng, khích lệ người dân luyện võ bắn cung, khiến cho sức chiến đấu của nước Ngụy được nâng cao lên rất nhiều.
Lời bạch: Ngụy Văn Hầu thông qua việc coi trọng Nho học để thực hiện văn trị, thông qua Lý Khôi để thành lập hệ thống pháp luật hoàn thiện. Trong việc mở rộng bờ cõi bằng vũ lực, Ngụy Văn Hầu cũng là người có công rất lớn. Ông dùng Nhạc Dương chiếm lĩnh Trung Sơn, dùng Tây Môn Báo quản lý thành Nghiệp, dùng Ngô Khởi chiếm lĩnh Tây Hà, có thể nói võ công hiển hách. Những vị danh thần danh tướng một đời này đã kiến lập sự nghiệp của mình như thế nào?
Chúng ta trước tiên nói về Nhạc Dương Tử, con người này tôi cảm thấy cuộc đời của ông có ba mặt tương đối tốt. Thứ nhất là thê tử tốt, thứ hai là hậu duệ tốt, thứ ba là đánh trận tốt.
Nói về “thê tử tốt” trước. Mọi người có thể đã từng học bài cổ văn hồi trung học “Nhạc Dương tử thê” trích từ “Hậu Hán thư-Liệt nữ truyện”. Kể về Nhạc Dương Tử có lần khi đi chơi ở bên ngoài, nhặt được miếng vàng của ai đánh rơi trên đường, về nhà đưa cho hiền thê coi. Ông nói, phu nhân xem ta nhặt được một miếng vàng. Nàng đáp lại: “Thiếp nghe nói chí sĩ không uống trộm nước suối, người liêm khiết không nhận đồ bố thí. Phu quân sao có thể đi nhặt đồ người khác đánh rơi, đã làm ô uế phẩm hạnh của mình rồi phải không?” Nhạc Dương Tử bị thê tử nói đến mức rất hổ thẹn, ông mang vàng bỏ trả lại chỗ cũ, sau đó Lạc Dương Tử chuẩn bị ra ngoài học tập.
Trở về sau một năm đi học, thê tử của ông quỳ trước cửa hỏi ông vì sao mà lại quay về sớm thế. Nhạc Dương Tử nói, thực ra thì không có việc gì, chỉ là do xa nhà lâu quá, rất nhớ mọi người. Nàng liền cầm một cái kéo, đến trước bàn dệt, chỉ vào một thớt vải nói, đây là vải do tơ tằm dệt thành, từng sợi từng sợi tơ tằm tích lũy lại mới có thể trở thành một tấc, từng tấc từng tấc tích lũy lại về sau mới có thể trở thành một trượng vải. Vải phải như thế này mới có tác dụng, mới có thể làm y phục. Nếu như thiếp dệt được một chút xíu liền đem nó cắt đứt, như vậy thì thớt vải phải bỏ đi. Việc học tập của phu quân cũng giống như dệt vải, mỗi ngày đều có thể biết một chút kiến thức mà trước kia mình không biết, phải tích lũy hàng ngày như vậy mới có thể thành tựu.
Nhạc Dương Tử nghe theo lời khuyên của thê tử, đi ra ngoài học bảy năm, hoàn thành nghiệp học của mình.
Lúc ấy Ngụy Văn Hầu chuẩn bị dùng binh đối với Trung Sơn, hỏi quan đại thần Địch Hoàng ai có thể đánh hạ nước Trung Sơn? Nước Trung Sơn và nước Ngụy không nằm liền kề nhau, nó tại phía bắc của nước Triệu. Nhưng Ngụy Văn Hầu cho rằng, nếu như Trung Sơn bị nước Triệu thôn tính, như vậy lãnh thổ nước Triệu sẽ rộng lớn hơn, quốc gia sẽ hùng mạnh hơn. Ông lúc đó mượn đường qua nước Triệu, tiến đánh Trung Sơn. Địch Hoàng đã tiến cử Nhạc Dương.
Sau khi Nhạc Dương nhận lệnh, rất nhiều đại thần dưới trướng của Ngụy Văn Hầu đều không đồng ý. Tại vì sao? Một người chưa có tiếng tăm gì, đột nhiên được giao cho binh quyền của quốc gia. Bọn họ đều khuyên can Ngụy Văn Hầu rằng, tuyệt đối đừng để Nhạc Dương lãnh binh, bởi vì con trai của Nhạc Dương làm đại phu ở nước Trung Sơn.
Vua nước Trung Sơn tên là Cơ Quật, con người này thường xuyên ngày đêm điên đảo hưởng lạc, người thất nghiệp ở trong nước rất nhiều, hơn nữa thiên tai liên tiếp, cuộc sống người dân vô cùng cực khổ. Ngụy Văn Hầu cho rằng đây là một cơ hội tốt để tấn công, ông đem binh quyền giao cho Nhạc Dương. Nhạc Dương cụ thể dùng sách lược gì để tác chiến đánh trận thì không có ghi chép trong Sử ký, nhưng là khí thế hừng hực, rất nhanh đánh tới đô thành của Trung Sơn.
Khi đó Vua của Trung Sơn kinh hoàng lo sợ, đại phu Công Tôn Tiêu đưa ra một chủ ý. Công Tôn Tiêu nói con trai của Nhạc Dương là Nhạc Thư hiện đang làm quan tại Trung Sơn, chúng ta nên để Nhạc Thư đi lên đầu tường thành, giảng hòa với phụ thân của hắn. Nếu như hắn không thể giảng hòa, sẽ giết chết.
Khi Nhạc Thư lên đầu tường thành, không đợi Nhạc Thư mở miệng, Nhạc Dương liền mắng con của mình, “Thằng con xấu xa! Làm một đại trượng phu mà nói, nguy bang không cư, loạn bang không nhập. Một quốc gia như thế này, Vua không lo quốc sự, ngươi lại không rời khỏi hắn, bản thân chẳng khác nào trợ Trụ vi ngược. Hiện tại ngươi không cho ta công thành cũng được, nhưng ngươi nhất định phải khuyên Vua của ngươi lập tức ra đầu hàng.”
Con của ông ta đáp lại đầu hàng hay không đầu hàng, không phải là việc một đại thần có thể quyết định, nhưng xin phụ thân thư thả cho một thời gian, con muốn thương lượng với Vua một chút.
Nhạc Dương nói: được, cho ngươi một tháng. Nhạc Thư liền trở về. Trải qua một tháng, Nhạc Dương lại hỏi con trai, thương lượng như thế nào? Nhạc Thư nói, ái chà, vẫn chưa thương lượng xong. Nhạc Dương nói cho ngươi thêm một tháng. Cứ như vậy ba lần, chính là ròng rã thời gian ba tháng, Nhạc Dương vẫn chưa công thành.
Sau khi tin tức truyền về nước Ngụy, những đại thần trước kia phản đối Nhạc Dương cầm quân liên tiếp dâng thư lên Ngụy Văn Hầu rằng, chúng ta bây giờ quốc gia tác chiến với bên ngoài, trải qua chặng đường xa như vậy, đem lương thực vận chuyển từ nước Ngụy đến Trung Sơn, mỗi một ngày đều phải tốn rất nhiều rất nhiều tiền. Nếu như Nhạc Dương không công phá thành trì, nơi đó chính là “Mệt quân tốn tiền”, để binh lính chúng ta trở nên mệt mỏi, sau đó còn hao phí của quốc gia rất nhiều tiền. Ông ta vì cái gì mà không đánh? Cũng là vì con của ông ta ở đó, cho nên hy vọng chúa công có thể rút Nhạc Dương về, thay một tướng quân khác.
Ngụy Văn Hầu liền hỏi Địch Hoàng, vì Địch Hoàng là người tiến cử. Ngụy Văn Hầu nói Nhạc Dương vì sao hiện giờ vẫn không công thành? Địch Hoàng thưa ông ấy nhất định có lý do của mình. Ngụy Văn Hầu liền bỏ mặc, không nghe những đại thần kia, tiếp tục phái người đến tiền tuyến ủy lạo đội quân của Nhạc Dương. Sau đó còn xây cho ông ta một căn nhà lớn ở trong quốc đô, chờ đợi Nhạc Dương khải hoàn.
Sau khi Nhạc Dương nghe được những tin tức này cũng rất cảm kích. Ông nói với thuộc hạ, ta sở dĩ ngừng công thành, cũng bởi vì Vua nước này không quản đến sự sống chết của dân chúng Trung Sơn. Nếu như ta công thành gấp, dân chúng Trung Sơn tử thương tất nhiều, ta hy vọng thông qua phương thức này, có thể mua được lòng dân.
Chúng ta cũng không biết về sau hậu thế của ông là Nhạc Nghị có phải cũng có cân nhắc như vậy hay không, khi nước Tề chỉ còn lại hai thành, Nhạc Nghị khi đó cũng là vây thành trong thời gian mấy năm không có đánh.
(Còn tiếp)
Do Bi Hui thực hiện
Sương Sương biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ
Xem thêm: