Thành tựu y học Trung y cổ đại: Thuật thay tim và y thuật khởi tử hồi sinh của Biển Thước
Kỹ thuật trị bệnh của nền y học Trung Quốc cổ đại vô cùng cao minh. Vào thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc hơn 2,000 năm trước, Thần y Biển Thước đã hiểu rõ sự vận hành của hệ thống kinh mạch, bệnh lý trong cơ thể con người. Ông có thể sử dụng phương pháp châm cứu kết hợp với các vị thuốc để điều trị bệnh tật, có thể làm người không còn mạch đập sống lại. Trung y có thể thực hiện được phẫu thuật gây tê ngoại khoa, còn có thể thực hiện “thay tim” mà không để lại di chứng về sau. Danh y Biển Thước của Trung y thời Xuân Thu Chiến Quốc được xem là “ông Tổ của mạch học.” Ông là thầy thuốc đầu tiên vận dụng phương pháp chẩn mạch để phán đoán bệnh tật và đưa ra lý luận chẩn mạch tương ứng. Ông cũng là người đặt nền tảng cho phương pháp chẩn đoán “Tứ chẩn” bao gồm “vọng, văn, vấn, thiết” (quan sát, nghe, hỏi han, bắt mạch) cho nền Trung y về sau.
Danh y Biển Thước, ông tổ của y học cổ đại
Danh y Biển Thước, họ Tần, tên Việt Nhân, quê ở huyện Bột Hải, người nước Trịnh, sống vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Theo “Sử Ký – Biển Thước Thương Công liệt truyện” ghi chép, thời trẻ, Biển Thước là chủ của một quán trọ, trong quán trọ có một khách quen tên là Trường Tang Quân. Biển Thước nhận ra ông là một vị kỳ nhân, nên đối đãi đặc biệt cung kính, còn Trường Tang Quân cũng luôn quan sát Biển Thước. Qua hơn mười năm, Trường Tang Quân quyết định truyền lại kỹ năng y thuật bí truyền cho Biển Thước. Một hôm, Trường Tang Quân tự thân đến tìm Biển Thước, nói: “Ta có một phương thuốc bí truyền, ta đã già rồi, muốn truyền lại cho ngươi, ngươi chớ tiết lộ ra ngoài”. Tiếp đó, ông căn dặn Biển Thước sử dụng phương thuốc này nhất định phải vừa uống vừa phối hợp với sương sớm hoặc nước ở trên cây trúc, sau 30 ngày là có thể nhìn thấy được vật ẩn kín. Trường Tang Quân trao cho ông tất cả sách ghi chép các phương thuốc bí mật, sau đó ông liền biến mất. Hóa ra ông không phải là một phàm nhân, mà là một nhân vật của Thần giới.
Biển Thước uống thuốc theo lời dặn của Trường Tang Quân. Sau 30 ngày, ông có thể nhìn thấy được người ở bên ngoài bức tường, còn có công năng đặc dị nhìn xuyên vật thể. Khi ông sử dụng công năng này để khám bệnh cho người khác, thì có thể nhìn thấy lục phủ ngũ tạng của người bệnh, hơn nữa ông có thể tìm ra nguyên nhân của bệnh ở đâu. Từ đó, Biển Thước dùng phương pháp “chẩn mạch,” bắt đầu hành nghề y ở nước Tề và nước Triệu. Khi hành nghề y ở nước Triệu, ông lấy tên là Biển Thước.
Ông nắm rõ nguyên lý âm dương tương sinh tương khắc của cơ thể và các triệu chứng phản ứng ra. Thậm chí ông không dùng phương pháp tứ chẩn “vọng, văn, vấn, thiết” (bắt mạch, nhìn khí sắc, nghe âm thanh, tả hình dáng) cũng có thể nói biết được vị trí bị bệnh trên cơ thể bệnh nhân.
Một lần, Biển Thước nghe tin Thái tử Quách (theo “Sử Ký Tam Gia Chú”) [1] đột ngột qua đời. Ông vội chạy đến cửa cung, tìm cung nhân giữ chức Trung Thứ Tử yêu thích y thuật để hỏi nguyên nhân và tình trạng tử vong của Thái Tử. Sau khi nghe Trung Thứ Tử kể lại, Biển Thước nhận định Thái tử chưa thực sự tử vong và ông có thể giúp Thái tử hồi sinh. Vị Trung Thứ Tử cho rằng ông nói vớ vẩn, không thể có đạo lý người mất rồi có thể sống trở lại?
Biển Thước không dùng đến “tứ chẩn”, chỉ giản lược nói với Trung Thứ Tử những phân tích khảo chứng của mình, sau đó ông nói: “Nếu ông không tin lời tôi, bây giờ ông có thể khám thử cho Thái tử, hẳn là có thể nghe được tiếng kêu trong tai, nhìn thấy mũi sưng, từ đùi đến âm bộ hẳn vẫn còn hơi nóng.” Trung Thứ Tử vội chạy vào cung bẩm báo. Kết quả kiểm chứng khiến Hoàng đế rất kinh ngạc, đích thân ra nghênh đón Biển Thước.
Biển Thước nói bệnh của Thái tử được gọi là “thi quyết”, nghĩa là cơ thể bất động giống như đã tử vong, nhưng thực sự chưa mất mạng, ông nói ra chẩn đoán bệnh trạng. Sau đó ông và học trò đồng thời dùng kim châm cứu và sắc thuốc, cứu sống Thái tử Quách khi đó sắp bị đưa vào nhập liệm. Sự việc này khiến người dân thời đó đều cho rằng Biển Thước “có thể hồi sinh người đã mất,” nhưng Biển Thước lại nói rằng, ông chỉ có thể làm sống lại những người chưa thực sự qua đời mà thôi.
Biển Thước nghiên cứu thấu đáo về âm dương và sự vận hành của kinh mạch trong cơ thể người. Kỹ thuật châm cứu của ông cũng rất cao minh. Theo “Tân Đường Thư – Nghệ Văn Chí” ghi chép, Biển Thước có tác phẩm “Hoàng Đế bát thập nhất nan kinh” gồm hai quyển. “Nan kinh” là một bộ sách nổi tiếng trình bày những vấn đề có liên quan đến mạch học, kinh lạc, tạng phủ, tật bệnh, huyệt vị, châm cứu trong “Nội kinh”. Toàn bộ cuốn sách được trình bày với hình thức hỏi đáp để giải thích những nghi vấn gọi là “Vấn nan”, tổng cộng có 81 “nan”. Trong đó từ nan thứ 69 đến nan thứ 81 là thảo luận cách vận dụng “dùng châm (châm cứu) bổ tả”. Cuốn “Nan kinh” đã làm phong phú thêm nội dung của “Hoàng đế nội kinh” và có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của ngành châm cứu về sau.
Các bệnh án do Thần y Biển Thước điều trị
Trong y thuật của Biển Thước, giải phẫu ngoại khoa là phương diện mà ông ‘xuất thần nhập hóa.” Ông có thể “thay tim” cho người bệnh, hơn nữa thủ thuật lẫn việc dùng thuốc hoàn thành chỉ trong một lần, cũng không có vấn đề tiếp tục dùng thuốc sau đó. Chúng ta hãy cùng xem một số bệnh án do thần y Biển Thước chữa trị. Những câu chuyện này được ghi lại trong chương “Liệt Tử – Thang Vấn”.
Lỗ Công Hỗ và Triệu Tề Anh đều bị bệnh. Họ cùng nhau mời Biển Thước chữa trị. Biển Thước đã trị bệnh thành công cho cả hai người. Sau đó Biển Thước nói với Công Hỗ và Tề Anh rằng: “Bệnh mà hai vị mắc phải trước đây là do nguyên nhân bệnh từ bên ngoài quấy nhiễu tạng phủ, dùng thuốc và châm cứu là có thể trị khỏi. Hiện giờ bệnh của hai vị theo tuổi tác mà nghiêm trọng dần lên. Tôi muốn giúp hai vị đẩy lùi căn bệnh này, ý hai vị như thế nào?”
Hai người trả lời: “Xin hãy cho chúng tôi xem hiệu quả trị liệu ra sao trước đã.”
Vì vậy, Biển Thước đã giải thích cho hai người họ. Ông nói với Công Hỗ rằng: “Ý chí của ông kiên cường nhưng thân thể khí nhược, do đó ông có tài năng về phương diện mưu lược nhưng không đủ quyết đoán. Ý chí của Tề Anh bạc nhược nhưng thân thể lại khí cường, do đó thiếu sót về phương diện vạch mưu kế, cân nhắc, lại sẽ vì kích động mà bị tổn thương. Nếu như có thể đổi tim của các ông cho nhau, như vậy hai ông đều có thể lấy sở trường bù sở đoản mà đạt được kết quả tốt”.
Hai người đồng ý thử một lần. Thế là Biển Thước cho hai người uống rượu độc, làm cho họ lâm vào trạng thái hấp hối trong ba ngày, sau đó phẫu thuật mở khoang ngực của hai người ra tiến hành thay tim, tiếp đó thoa lên một loại thuốc thần kỳ. Sau khi hai người họ tỉnh dậy, tình trạng cơ thể giống như trước đây.
Hai người từ biệt Biển Thước trở về nhà. Thế nhưng cả hai tự động hoán đổi nhà, Công Hỗ trở về nhà của Tề Anh, còn Tề Anh trở về nhà của Công Hỗ. Thê tử của hai người đều không nhận ra ‘trượng phu’ vừa về nhà. Kết quả một người nói “nàng là thê tử của ta”, người kia nói “ông không phải là trượng phu của tôi.” Hai gia đình vì thế mà xảy ra bất hòa, cãi cọ không dứt, cuối cùng phải mời người thực hiện phẫu thuật đổi tim là Biển Thước đến xác nhận, giải thích rõ ràng. Biển Thước đã đem ngọn nguồn đầu đuôi sự việc giải thích tường tận, tranh cãi mới được giải quyết.
Kỳ thực, người có “y thuật như Thần” thời Trung Quốc cổ đại không chỉ có một người. “Hậu Hán Thư” và “Tam Quốc Chí” ghi chép lại tỉ mỉ chuyện Hoa Đà thời Đông Hán dùng Ma Phí Tán (tên một loại thuốc) gây mê bệnh nhân, để thực hiện mổ bụng tách ruột, cắt bỏ khối u, sau đó khâu lại rồi bôi thần cao, nhờ đó đã trị khỏi bệnh cho bệnh nhân.
Phẫu thuật “thay tim” thời hiện đại
Phẫu thuật thay tim của Biển Thước có tác dụng gợi ý cho những “nghi ngờ” của người hiện đại. Hiện nay trên phương diện lâm sàng đã đưa ra một số trường hợp sau khi được cấy ghép tim, thì ký ức hay sở thích ăn uống, thói quen, ngay cả tình cảm, tình yêu… đều xuất hiện một số thay đổi, thậm chí là thay đổi cực đoan. Sau đó người ta phát hiện rằng, những thay đổi này của họ thì ra là do tiếp tục kế thừa những thuộc tính của người hiến tặng tim mà có. Sau khi cấy ghép tim, thì trí nhớ, thói quen, tính cách, lựa chọn … cũng theo trái tim truyền đến cơ thể người nhận tim.
Sau khi được ghép tim thì yêu cùng một người
Sau đây là câu chuyện có thật của anh Sonny Graham ở tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Anh Sonny nhiễm virus, bị bệnh cơ tim giãn nở, may mắn được thực hiện phẫu thuật ghép tim thành công vào năm 1995. Qua năm sau, anh đã liên lạc với tổ chức trung gian hiến tặng nội tạng để cảm ơn gia đình của người hiến tạng. Anh có được địa chỉ của cô Cheryl Sweat, vợ người hiến tặng. Chồng cô Cheryl Sweat là Terry Cottle đã qua đời ở tuổi 33 do dùng súng tự sát. Trái tim của anh Terry Cottle được quyên tặng cho anh Sonny.
Anh Sonny rất biết ơn vì bản thân may mắn có thể sống tiếp, anh đã viết thư để cảm ơn cô Cheryl. Sau đó vào tháng 01/1997, anh đích thân đến thăm cô. Qua lời kể của cô Cheryl, anh biết được anh Terry Cottle thích rượu bia và hotdog (một loại đồ ăn nhanh), mà chính bản thân anh sau khi được ghép tim cũng thích rượu bia và hotdog. Kỳ lạ hơn nữa chính là, khi anh Sonny vừa nhìn thấy cô Cheryl, liền có cảm giác giống như đã quen biết cô nhiều năm rồi. Tình cảm ái mộ mãnh liệt dành cho cô chỉ có thể được xem là “vừa gặp đã yêu”.
Sau chuyến thăm đó, anh bắt đầu nhiệt tình theo đuổi cô Cheryl, lúc đó 28 tuổi. Sau bảy năm, hai người kết hôn vào năm 2004. Thế nhưng, ngày vui chẳng kéo dài. Sau ba năm kết hôn, vào một ngày của năm 2007, ông Sonny đã nổ súng tự kết thúc đời mình khi ở ngưỡng 69 tuổi. Ông thực hiện hành động giống như Terry Cottle, người hiến trái tim cho mình.
Phát hiện về những trường hợp trái tim có khả năng ghi nhớ tương tự như vậy càng ngày càng nhiều. Vì sao trái tim có thể có ký ức? Trong “Hoàng đế nội kinh” của Trung y nói rằng: “Tâm tàng thần” (tim có chứa nguyên thần), có nghĩa là, con người ngoài thân thể, còn có “nguyên thần”. Nguyên thần là thứ mắt người không nhìn thấy được và đó mới là chủ nhân chân chính của sinh mệnh. Kiến giải sâu sắc về sinh mệnh của Trung y đã mang lại những thành tựu siêu thường.
Thái sử công Tư Mã Thiên đã ca ngợi Biển Thước: “Biển Thước ngôn y, vi phương giả tông, thủ số tinh minh, hậu thế tu (tuần) tự, phất năng dịch dã” (tạm dịch: Biển Thước hành nghề y, là ông tổ của nghề này, y thuật cao minh, người đời sau học theo không phải dễ). Cũng chính là nói rằng, Biển Thước y thuật cao minh, đã đặt định y lý của Trung y cho người đời sau. Ông là đại tông sư, là tổ sư của Trung y. Hiệu quả của Trung y đã chứng minh được rằng, cơ thể con người có sự vận hành của kinh mạch và khí mà “mắt thường nhìn không thấy”.
Các bệnh án do Biển Thước chữa trị đã thể hiện y thuật tinh xảo và trình độ đỉnh cao của Trung y, mà những thành tựu này tồn tại gắn liền với đạo đức nhân phẩm cao thượng. Đây cũng chính là lý do vì sao Trường Tang Quân phải quan sát biển Thước trong hơn 10 năm mới truyền thụ tuyệt học của mình. Thầy thuốc có Thần y, có lương y, cũng có dung y (lang băm), giang hồ thuật sĩ, kẻ lừa gạt. Tất cả đều là vì mức độ đạo đức khác nhau mà quyết định hiệu quả và trình độ kỹ thuật khác nhau. Trong y học như thế, trong những phạm trù khác của văn minh nhân loại cũng nhất quán tương thông như vậy. Đạo đức cao thượng cũng là cơ sở lâu dài và là động lực cốt lõi để phát triển văn minh.
Chú thích:
Lam Yên biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ